Phóng viên TCSH: Hình như từ trước có một sự gợi ý của ai chăng, công trình anh đang làm: Một thế kỷ thơ Việt?
Nhà thơ Trinh Đường - Ảnh: baodanang.vn
Trinh Đường: Dịp kỷ niệm 35 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, tôi có phát biểu "Đã đến lúc nên nhìn lại chặng đường văn học nửa thế kỷ qua, khẳng định cái được, cái mất. Cũng đã đến lúc làm một cuộc tổng kết về bước phát triển của văn học sử của dân tộc chúng ta trong thế kỷ 20, chuẩn bị hành trang để bước vào kỷ nguyên tới... Công trình tôi đang làm xuất phát từ đó...
P.V: Việc gì cũng bắt đầu từ sáng kiến cá nhân, nhưng một mình anh làm sao có thể tiến hành một công trình đồ sộ như vậy?
T.Đ: Các bạn tôi Tế Hanh, Huy Cận, Anh Thơ là ba trong nhiều người đầu tiên nhiệt liệt ủng hộ việc làm của tôi. Hàng nghìn thư và thơ gửi tham gia, chứng tỏ các bạn thơ và yêu thơ cả nước đều hưởng ứng. Có tự tin mới làm nhưng phòng hạn chế nhiều mặt, tôi có mời một số bạn thơ cùng làm.
P.V: Anh có thể cho biết tên là những ai?
T.Đ: Tập sách ra đời phải dành trang trước ghi tên nhóm biên soạn. (Gồm có ba bạn trong nhóm văn học Khuê Văn thành lập hơn mười năm nay của tôi: Trinh Đường, Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện và ba bạn nữa: Tế Hanh, Ngô Văn Phú, Anh Ngọc). Đa số bạn trong nhóm đều đủ trình độ cáng đáng công trình này. Để bảo đảm tối đa kết quả, chúng tôi còn khai thác chất xám ở rất nhiều nguồn khác nhau trong cả nước.
![]() |
Nhóm Khuê Văn - Hà Nội: Hàng đầu từ trái qua là các nhà thơ:Trần Lê Văn, Trinh Đường và Huy Cận - Ảnh: baodanang.vn |
P.V: Anh cho biết tính chất công trình này so với những tuyển thơ đã có?
T.Đ: Trước hết là thơ hay xét trên bình diện thế kỷ. Cùng với cái hay có ít nhiều gắn bó với lịch sử. Ví dụ thơ Hồ Chủ Tịch gắn với việc Bác làm cách mạng bị ở tù, như bài "Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc" của Văn Cao gắn tình hình đói kém trước khởi nghĩa 45... Nhưng nhiều bài đã in với số lượng cao góp phần đẩy mạnh việc đánh thắng quân thù, chúng tôi quý nó, nhưng vẫn không tuyển vì lẽ nó không hay. Công trình này còn khác ở nhiều hợp tuyển khác ở chỗ tập hợp những bài thơ hay có tinh thần yêu nước, chủ nghĩa nhân bản của các bạn thơ trong các vùng tạm chiếm cũ và kiều bào ta ở nước ngoài không phân biệt chính kiến và khuynh hướng nghệ thuật.
P.V.: Những khó khăn lớn nhất trong công việc của anh và nhóm tuyển?
T.Đ: Nhiều. Trước nhất là trình độ, tạm được giải quyết bằng "đông tay vỗ nên kêu" của cả nhóm. Thứ hai là khách quan không thiên vị, được giải quyết bằng cách giấu tên tác giả trước khi đưa ra cho nhóm tuyển. Thứ ba là tiền. Cả nhóm đều làm với đồng lương hưu, lương tại chức... và nhuận bút nhì nhằng. Tinh thần và công sức không thể thay thế cho dinh dưỡng cần thiết khi làm, chúng tôi đang tìm một Mạnh Thường Quân tài trợ cho khoảng ba bốn triệu gởi Ngân hàng lấy lãi để làm mà chưa biết ai là người sẽ vì nghĩa, và cố nhiên vì nền thơ ca của đất nước, đứng ra giúp chúng tôi làm tròn nhiệm vụ to lớn này.
P.V: Anh cho biết số lượng trang sẽ in và thời gian ấn hành.
T.Đ: Nhóm tuyển chúng tôi đã họp phiên đầu và thống nhất với nhau sẽ in làm ba tập. Tập I từ đầu thế kỷ đến 45. Các cụ như Tú Xương, Yên Đỗ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh... mở đầu rồi qua cái cầu nối là Tản Đà đến Thế Lữ, Xuân Diệu... Tập này làm xong giữa 93 và in ngay sau đó. Tập II gồm các nhà thơ cách mạng và kháng chiến, các bạn thơ vùng tạm chiếm trước và kiều bào ta ở nước ngoài từ 45 - 75. Tập này làm xong cuối 93 để in. Tập III giành cho các bạn thơ xuất hiện sau 75, làm xong giữa 94 để in. Ba tập ước lượng 2000 đến 2500 trang.
P.V: Tôi đã đến nhà anh. Có thể nói anh là đại biểu tiêu biểu cho tầng lớp dân nghèo thành thị. Vậy tiền đâu để in?
T.Đ: Tôi rất hân hạnh được Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam nhận in cả ba tập. Tiền khó với tôi đã đành nhưng cũng không dễ đối với Nhà xuất bản. Nhận lời hỗ trợ, tôi có nhằm nhiều nguồn tiền. Hoặc một cá nhân hay một xí nghiệp hào phóng, một tổ chức văn hóa trong ngoài nước, nhưng chỗ tôi hy vọng nhiều nhất và cũng để dành cái vinh dự, và để đền ơn đáp nghĩa cho nơi đã sinh ra tôi, là bà con tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng mà đại diện là Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh. Gạch ngói có thể hư nát, chứ tập một thế kỷ thơ Việt này sẽ sống ngoài vòng dâu bể. Nếu lãnh đạo tỉnh sinh quán của tôi nhận tài trợ để in tập này, thì nói cho có hình tượng, tức là dựng một ngôi nhà bằng thơ cho cả nước. Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Văn nghệ QN-ĐN, nghe tôi trình bày đều tin tưởng rằng Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân Tỉnh QN-ĐN sẽ hào hiệp tài trợ để xuất bản công trình thế kỷ này.
P.V: Cám ơn anh Trinh Đường về buổi gặp gỡ bổ ích anh đã dành cho TCSH?
P.V
(TCSH53/01&2-1993)
NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.
PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)
HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)
NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.
ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...
THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.
BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.
MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.
HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.
HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự: Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập trong hòa ca Một nốt trầm xao xuyến (Mùa xuân nho nhỏ)
Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.
PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).
HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.
LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.
PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.
NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)