NGUYỄN TRỌNG TẠO
Lâu nay, đọc thơ của trẻ em, tôi thường có cảm giác, hình như các em làm thơ dưới ngọn roi giáo huấn mà người lớn thường giơ lên đe nẹt trẻ con. Cho nên khi cầm trong tay tập thơ Cái chuông vú của bé Hoàng Dạ Thi “làm” từ 3 đến 5 tuổi, tôi không khỏi ngạc nhiên.
Minh họa: Đinh Cường
Người xưa từng viết:
Sông nửa nghìn năm cười bật tiếng
Núi ba vạn tuổi nói nên lời.
Quả là cười thành tiếng, nói nên lời thật khó thay!
Vậy mà bé Hoàng Dạ Thi chưa đến tuổi đi học, không những “nói nên lời” mà còn “xuất khẩu thành thơ” nữa, thật là một hiện tượng kì lạ.
Cái mặt trăng
Suốt ngày đi ngủ
Suốt đêm đi chơi
Nó đi nó ngã
Xuống dưới đất này
Sáng ra
Người ta nhặt nó về làm bánh.
Đấy là bài thơ đầu tiên của Hoàng Dạ Thi mà mẹ em ghi lại được trong đêm chở em ra ga lên tàu, cái đêm mà em nhìn thấy vầng trăng lúc về sáng bị “ngã” xuống mặt đường còn đọng nước mưa. Ấy là một đêm mùa hè năm 1980, khi bé Dạ Thi vừa mới lên ba. Hoàng Dạ Thi làm thơ mà không ý thức là mình làm thơ. “Mình thì nói để mình chơi, mà hễ nghe mình nói, ông Dạ lại kêu ông Tường: Eng Tường ơi eng Tường, lấy giấy bút ra đây mau lên, con Lim (tên gọi của Thi ở nhà) hắn lại nói thơ đây rồi”. Có lần bé Dạ Thi đã “tâm sự” như vậy. Hóa ra, đây chỉ là một “trò chơi” của em.
*
Từ xa xưa, trẻ em của chúng ta có khá nhiều trò chơi trong sáng hồn nhiên và vô cùng thú vị: đánh chuyền, đánh khăng, chồng nụ chồng hoa, bịt mắt bắt dê, chơi ô ăn quan v.v… Ngày nay, trong khi người ta dạy cả trò chơi giết người cho trẻ em, thì chính Hoàng Dạ Thi lại sáng tạo ra một trò chơi thật lí thú: NÓI THƠ. “Mình nói để mình chơi”, ngẫm cho cũng chính là trò chơi nói thơ ấy.
Trò chơi của em là trò chơi nói ra những ý nghĩ, những nhận xét về thế giới gần gũi chung quanh bằng ngôn ngữ của riêng em. Em chơi nói thơ với với bố mẹ, với chị Bê Líp, với bà ngoại, cô chú, với con mèo, quả bóng, vầng trăng, cây lá. Và có khi, em chơi nói thơ một mình. Nhưng trò chơi của em không chỉ dừng lại ở sự giải trí đơn thuần. Với ngôn ngữ ngây thơ hồn nhiên nhiều lúc độc đáo đến mức “xuất thần” của em, nó còn là một sự giải thoát của tâm hồn tiềm ẩn những bí mật sâu xa.
Cũng có thể gọi trò chơi của em là trò chơi của trí tưởng tượng hoang sơ, giống như con người thời tiền sử, chưa có sự hiểu biết khoa học, người ta ngậm nước phun ra trong những điệu nhảy múa đều cầu mưa; hoặc trèo lên mái nhà bắt chước gió thổi mạnh để xua đuổi mây đi. Hơn thế nữa, người ta còn tưởng tượng ra những câu chuyện thần thoại hoang đường để cắt nghĩa các hiện tượng thần bí trong vũ trụ. Trò chơi của em là trò chơi của con người tiền sử ham hiểu biết và khao khát khám phá những bí mật trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên và con người.
Sự gần gũi với con người tiền sử, chính là bản chất trẻ thơ của con người ngày nay. Trong trò chơi của Hoàng Dạ Thi, chúng ta gặp lại cái tâm hồn thơ trẻ sơ khai mà con người thời văn minh dường như lắm lúc đã lãng quên.
*
Mẹ! Đấy là tiếng gọi đầu tiên của tuổi thơ, tiếng gọi về cội nguồn thăm thẳm. Đói, gọi mẹ. Khát, gọi mẹ. Thích thú, sợ hãi, buồn vui… đều gọi mẹ. Nhưng khác với nhiều trẻ em làm thơ, mỗi lần gọi đến mẹ là Hoàng Dạ Thi nhớ ngay đến cái bầu vú huyền diệu, cái bầu vú cội nguồn:
Bà mẹ này có
Cái vú rất ngon
Đây là “Cái vú ngon ngọt - Không cần bỏ đường”. Và trí tưởng tượng của em mang lại những phát hiện thật độc đáo:
Cái vú nhiều màu
Ở trong giấc mơ
Cái vú chảy sữa ra
Ở trên trang sách
Trang sách đọc cái vú
Thật là kinh ngạc khi ta nghe từ đôi môi mọng đỏ còn thơm mùi sữa mẹ, phát ra những lời: “Cái vú cỏ non - Cái vú chân trời”. Nhưng rồi ta thấy hoàn toàn hợp lí khi nghe em nó về “Cái chuông vú” của mẹ có liên quan đến cái chuông “kreng” của người bán kem, thường ngày vẫn đi qua nỗi thèm thuồng của em:
Hai cái vú của mẹ là hai cái chuông
Con sờ vào
Nó kêu: Kreng, kreng, kreng…
Và cái trò chơi hồn nhiên đã thức dậy trong em thật ngộ:
Con mượn hai cái chuông vú
Con đi bán kem
Chưa hết. Trò chơi của bé Dạ Thi kết thúc thật thông minh và cũng thật bất ngờ:
Ai nghe tiếng chuông vú cũng đi đến mua
Kem vú ngọt lắm
Kreng, kreng, kreng…
Có lúc, Hoàng Dạ Thi hỏi rồi tự trả lời. “Ngày xưa con Lim ở đâu?” Câu hỏi bình thường như một câu hỏi của trẻ em về cội nguồn của bông hoa, cây trái. Và em cũng tự hỏi để “mình chơi” cho vui. Nhưng câu trả lời của em khiến ta hết sức ngạc nhiên. Trẻ em không thích trả lời là ngày xưa mình ở trong bụng mẹ. Có một linh cảm đặc biệt nào đó khiến câu trả lời của em chệch hẳn đi. Ngây thơ và hồn nhiên, nhưng đọc lên, ta bỗng bần thần ngẫm ngợi:
Ngày xưa con Lim ở đâu?
Để cho cái vú đi tìm
Phải chăng, cái vú cội nguồn mãi mãi đi tìm đứa con đã cai sữa?
Sự hướng về người mẹ, hướng bề cội nguồn của trẻ thơ như có một ma lực kì lạ, một tôn giáo bẩm sinh. Ngay cả trong trò chơi ngộ nghĩnh của em, vẫn thể hiện một tình cảm thương yêu trân trọng vô cùng đối với người mẹ - cội nguồn:
Mẹ là cái bánh mà không ăn được
Ta để ta cúng mãi hoài.
*
Thi nhân xưa từng khóc thương người vợ quá cố bằng những câu thơ rứt ruột: “Đập cổ kính ra tìm thấy bóng - Xếp tàn y lại để dành hơi”. Hoàng Dạ Thi thương nhớ ba khi ba em vắng nhà lâu, và em cũng đã khóc. Nhưng lí do để em khóc thật lạ lùng:
Con ôm cái áo
Con ngửi toàn mùi vải
Không có mùi thịt của ba
Nên con khóc.
Tôi không có ý định đem so sánh thơ Dạ Thi với thơ thi nhân xưa, mà chỉ muốn nói rằng, tâm hồn em ẩn chứa khá sâu sắc những cung bậc của tình cảm con người. Yêu thương, căm giận, vui buồn, sướng, khổ… hiện lên thật đa dạng trong những bài thơ hồn nhiên trong sáng của em. Thương bà ngoại răng đen “suốt ngay đi chợ”, sung sướng khi được ở với hai người cả mẹ và ba, vui vì thấy chú A Lềnh hút thuốc lào “Cái miệng chú đặt vào - Cái ống kêu kêu kêu”, buồn vì quả bóng bay bị tan vỡ, v.v… Tâm hồn em đa cảm và biết phân biệt thiện ác, tốt xấu rạch ròi:
Mây đen là mây độc ác
Mây trắng là mây hiền lành
Mây đen nhốt trăng lại
Mây trắng thả trăng ra…
Nhưng dễ nhận thấy ở em là bản tính tinh nghịch và giàu liên tưởng. Dưới mắt em, những sự vật quá quen thuộc bỗng trở thành mới lạ như lần đầu tiên ta được thấy. Ngọn thông “xanh như que cà - rem đang non”, bầu trời như cái áo “có nhiều hạt cúc sao”, ngọn núi “như cái mũ của dòng sông Hương”, cái mặt nhựa “biết khóc biết cười” và “biết cái mặt nhựa”, con gà con thỏ “thay Lim vẽ cỏ - Lim đi đến ngay”, tóc mẹ như những sợi khói bay lên, và “phiếu bé ngoan của gió - là những ngọn lá vàng”, v.v… Cái bản tính tinh nghịch và giàu liên tưởng của em khiến cho trò chơi nói thơ trở nên hấp dẫn và lôi cuốn, nó làm cho người nghe luôn ngạc nhiên và nở những nụ cười yêu mến, thán phục. Trò chơi thông minh và hóm hỉnh của em mở cửa bao điều bí mật mà chúng ta chưa hề biết tới:
Có một người đen nhẻm
Đứng suốt đêm bên bếp lò
Đó là cánh cửa bếp
Hoặc là:
Chị Líp đội cái đầu cho con mèo
Chị Líp có cái đầu mèo nhỏ xíu
Con mèo có cái đầu to nặng nề
Con mèo đi thương nhớ
Cái mặt con mèo nơi xa…
Và đây nữa:
Ai cũng có một con mắt người một con mắt vật
Còn của Lim thì có một con mắt rắn một con mắt của Lim
*
Đọc Hoàng Dạ Thi, thỉnh thoảng nỗi hoài nghi vẫn bảng lảng trong đầu tôi. Có vài ba bài thơ nghe như giọng của người lớn. Nỗi buồn của em sao đôi lúc giống như nỗi buồn của người từng trải?” Cái đời này không có gì ở trong đó cả” - Hoàng Dạ Thi đã có lần thốt lên như vậy.
Tôi gặp bố mẹ em, và được biết nhiều chuyện về em.
Hoàng Dạ Thi sinh ngày 6 tháng 8 năm 1977. Em mới lên ba, mẹ em đã phải gửi em cho bà nội ở Sài Gòn để theo học trường Viết văn ở Hà Nội. Em sống xa bố mẹ luôn. Mấy năm liền, khi sống với bà nội, khi theo ba ra Huế, khi lại ở Hà Nội cùng mẹ. Có lúc hai chị em đi nhặt lá, nhặt than cho bà nội nấu cơm, em bị ba đánh oan vì tưởng em nghịch bẩn. Có lúc em sống buồn rầu giữa cảnh ba mẹ giận nhau… Phải chăng, đây là nguồn gốc của sợ đau đớn, là “kinh nghiệm sống của những năm buồn bã” như người ta vẫn thường nói? Và vì vậy, trò chơi của em đôi lúc mang nặng nỗi buồn và sự khát khao giải thoát.
Mẹ và chị Líp đi chợ
Ông Tường đi cơ quan
Lim ở nhà một mình
Có con chuồn chuồn kim
Xuống chở Lim bay lên trời
Thơ em có những từ ngữ của người lớn. Đó là những từ em nghe lạ tai, nó ám ảnh em, rồi nó hồn nhiên nhập vào trò chơi nói thơ của em:
Có một người đau dây thần kinh
Quằn quại im lặng mà không biết
Đó là cây đàn ghita.
Tại sao cây đàn ghita lại đau dây thần kinh? Em tiết lộ, có một con gián bò trên dây đàn:
Con Lim buồn ngủ
Hắn làm bài thơ Ngáy
Hắn làm rất hay
Toàn những câu giống nhau.
- Tại răng con lại nói: “Toàn những câu giống nhau?” Mẹ em hỏi.
- Mẹ không thấy người ta ngáy à? Dạ Thi hỏi lại mẹ.
- Người ta ngáy răng?
Hoàng Dạ Thi nhại tiếng ngáy, trả lời mẹ:
- Người ta ta ngáy khừ, khừ, khừ, khừ…
Người lớn sẽ không hiểu được những ý nghĩa ngây thơ đa nghĩa của trẻ em, nếu không thực sự tìm hiểu, khám phá những bí mật ẩn chứa trong đầu óc non trẻ của chúng, đặc biệt là ở những trẻ em mẫn cảm, thông minh, ham hiểu biết và muốn khám phá thế giới xa lạ chung quanh. Hoàng Dạ Thi là một trường hợp, một hiện tượng khá đặc biệt, không dễ gì lí giải một cách rõ ràng được. Hai bài thơ sau đây của em (không chọn in trong tập CÁI CHUÔNG VÚ), phần nào giúp chúng ta hiểu thêm tâm hồn và khả năng hiếm có của em:
1. CÁI HÔN
Cái hôn của mẹ chỉ dành cho con
Cái hôn của mẹ nhà nước đã quản lí
Cái hôn của mẹ chỉ dành cho ông Tường
Một ngày
Mẹ nói với ông Tường:
Để em đi bán cái hôn cũ
Em mua cho anh cái hôn mới
Nhưng ông Tường lại nói:
Không, không đừng bán
Mình không thích cái hôn mới
Mình chỉ thích cái hôn cũ thôi.
2. CÁI BÓNG
Ông Tường mượn bóng của ông Dạ để đi chơi
Ông đi ra ngoài đường
Ai gặp ông cũng nói
Ê, ê, ông Tường mượn bóng của ông Dạ
Ông Tường xấu hổ đi về nhà
Trả bóng cho ông Dạ
Ông không có bóng
Mà chỉ có bóng của cái nốt ruồi ông thôi.
Có người bảo, Hoàng Dạ Thi nói thơ như có “ma nhập” là vậy.
*
Thơ của Hoàng Dạ Thi đã được tặng Giải thưởng đặc biệt của Nhà văn hóa thiếu nhi thành phố Huế, đã được giới thiệu trên nhiều tờ báo, tạp chí trong nước và nước ngoài trước khi in thành tập. Trung tâm thiếu nhi quốc tế NGỌN CỜ HÒA BÌNH (Drapeau de la Paix) Bungari hàng năm vẫn đều đặn gửi quà biếu cho em với tư cách là một cộng tác viên thơ. Nhưng từ khi lên sáu tuổi, từ khi cắp sách tới trường, Hoàng Dạ Thi cũng từ biệt trò chơi NÓI THƠ của mình. Em học giỏi môn văn. Hai năm liền là học sinh giỏi văn của thành phố. Em viết truyện cổ tích và say vẽ tranh. Truyện được đăng báo. Tranh được giải thưởng tranh thiếu nhi Huế…
Tôi hỏi vì sao mấy năm nay em không làm thơ nữa, Hoàng Dạ Thi hồn nhiên trả lời:
- Làm thơ mà cứ phỏng vấn, phỏng vấn… Làm thơ chi cho khổ!
Không thể đoán trước là rồi đây em có tiếp tục làm thơ nữa hay không. Sự phát triển năng khiếu ở mỗi người thường có những bước ngoặt khó lường. Với Hoàng Dạ Thi, sự thực là sau khi đã nói được hơn 100 bài thơ (do mẹ em ghi lại), dường như em cũng không còn chú ý mấy đến nó nữa…
Nhưng, những bài thơ tuổi nhi đồng của em để lại thật đáng quý. Tập thơ của em mang tới cho người đọc chưa hết bất ngờ này đã tới ngạc nhiên khác. Nó giống cái khối vuông rubích trên tay, mà mỗi người với khả năng của mình, sẽ có thể tìm thấy bao niềm hứng thú khác nhau.
N.T.T
Huế, 8 - 6 - 1987
(SH35/01&02-89)
NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH
Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.
Bằng sự tinh tế và thâm trầm của người từng trải, Nguyễn Đình Tú đưa tới góc nhìn đa dạng về người trẻ trong tập truyện ngắn "Thế gian màu gì".
Qua đi, với những hoa tàn tạ
Hoa trong hồn ta, ai hái được bao giờ
Victor Hugo*
Nhà báo Phan Quang nghiên cứu, phân tích truyện dân gian để mang tới bức tranh văn hóa xứ Trung Đông trong cuốn "Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập".
Những độc giả từng yêu thích Nắng và hoa, Thấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầu, Chuyện trò... - những tập sách đã có một góc riêng sang trọng trên kệ sách tản văn Việt bởi góc nhìn uyên thâm, giọng văn ảo diệu của GS Cao Huy Thuần - nay vừa có thêm một tặng phẩm mới: Sợi tơ nhện.
Y PHƯƠNG
Trong một lần đoàn nhà văn Việt Nam đi thực tế sáng tác ở Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh), tôi nghe mấy nữ nhà văn lao xao hỏi tiến sĩ - nhà văn Lê Thị Bích Hồng: “Đêm qua em viết à?” Bích Hồng ngạc nhiên: “Không đâu. Hôm qua đi đường mệt, em ngủ sớm đấy chứ”.
HOÀNG THỤY ANH
Mùa hè treo rũ
Trong cái hộp hai mươi mét vuông
Ngổn ngang màu
Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông
Ngày lên dây hết cỡ
Chật
Dâng đầy lên ngực
Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian
NGHIÊM LƯƠNG THÀNH
Đọc xong Những đứa con rải rác trên đường, cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Hồ Anh Thái (Nxb. Trẻ 2014), thoạt đầu tôi có cảm giác trống vắng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Anh Cao Việt Dũng hỏi: anh có biết Lưu Quang Vũ không? Anh nghĩ gì về thơ Lưu Quang Vũ?
CHÂU THU HÀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tinh hoa và cốt cách của Người là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ, nhà báo.
DÃ LAN - NGUYỄN ĐỨC DỤ
Cách đây mấy năm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội có cho phát hành cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HỌC (1983 - 1984). Sách gồm hai tập: tập I và tập II đầy cả ngàn trang, với sự cộng tác của nhiều tác giả.
MAI VĂN HOAN
"Dư âm của biển" - theo tôi là cách gọi hợp nhất cho tập thơ mới này của Hải Bằng. Đặt "Trăng đợi trước thềm" chắc tác giả gửi gắm một điều gì đó mà tôi chưa hiểu được. Song với tôi "Trăng đợi trước thềm" có vẻ mơ mộng quá, tên gọi ấy chưa thể hiện được giai điệu cuộc đời của thơ anh.
PHẠM PHÚ PHONG
Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984), hiệu là Lộc Đình, người làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, thị xã Sơn Tây, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thủ đô Hà Nội, là nhà văn, nhà nghiên cứu, biên soạn, khảo cứu, về nhiều lĩnh vực như văn học, triết học, sử học, ngôn ngữ học, đạo đức học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, gương danh nhân…
Chuyện gì xảy ra trong ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn? Nhiều người đã viết về sự kiện này. Một lần nữa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái - nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã lên tiếng, cùng với sự trợ giúp của vợ và hai con - Nguyễn Hữu Thiên Nga và Nguyễn Hữu Thái Hòa.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật cho ra mắt bạn đọc một số đầu sách về sự kiện lịch sử này, về lịch sử kháng chiến Nam Bộ và về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của toàn dân Việt Nam.
LÊ HUỲNH LÂM
Không khỏi bất ngờ khi cầm trên tay tập “Hôm qua hôm nay & hôm sau” của Vũ Trọng Quang do Nxb Đà Nẵng ấn hành vào tháng 1 năm 2006. Vậy là đã 9 năm.
PHẠM XUÂN DŨNG
Tôi và nhiều bạn bè sinh viên còn nhớ nguyên vẹn cảm giác lần đầu nghe bài thơ “Đêm qua” của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đêm cư xá Huế lạnh và buồn đến nao lòng tê tái.
Ý NHI
1.
Một buổi chiều, khoảng cuối năm 1989, chúng tôi có cuộc gặp gỡ tại nhà Trần Thị Khánh Hội, trong một con hẻm rộng, quận Phú Nhuận.
TRẦN HOÀI ANH
(Kỷ niệm 49 năm ngày mất cố Thi sĩ Nguyễn Bính 1966 - 2015)