Trịnh Công Sơn và những con đường

08:28 06/08/2009
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

Ảnh: tcs.nhacso.net

Đã rất nhiều lần tôi đứng ở sân trường để ngắm những chiều mưa. Đường phố trong mưa như một dòng sông nhỏ, với đôi bờ là những hàng cây và hè phố thờ ơ. Những tà áo nữ sinh giống hệt những con thuyền, cứ bị dòng sông đời xô đi, cuốn đi đến nơi nào đó; hối hả mà thầm lặng trong đam mê vô vọng của kiếp người. Đã không ít lần tôi ngạc nhiên vì bất lực với chính mình. Tại sao cũng tà áo trắng ấy; cũng là đi và trôi trong một chiều mưa như thế, nhưng chẳng nơi nào làm tôi bâng khuâng, chẳng nơi nào làm tôi dứt day nhiều đến thế trước tà áo trắng - và mưa, và chiều của Huế?

Tôi tìm câu trả lời từ sự im lìm đầy kiêu hãnh của rừng thông trên núi Ngự. Tôi đắm mình hàng giờ trước cái kiên nhẫn đầy trắc ẩn của dòng Hương. "Trí giả nhạo thuỷ" bởi cứ tưởng rằng "thệ giả như tư phù"(2). Nhưng chẳng bao giờ bậc trí giả nhìn thấy những sóng ngầm nhức nhối của tuyệt vọng giãi bày. Bất lực, tôi lắng nghe những giọng nói nhỏ nhẹ xung quanh tôi để may ra tìm thấy câu trả lời. Không một ai chỉ cho tôi thấy cái cần biết; nhưng qua giọng nói của... Huế, tôi mơ hồ hiểu từng âm tiết, từng ngữ điệu là những hạt sợi làm cho tà áo dài Huế nhẹ hơn, mềm mượt hơn. Tôi nhìn ngắm những con người với những bước chân chầm chậm, thi thoảng còn chậm hơn là những ánh mắt rụt tè mà sự tự tin nằm ẩn trong tim. "Đêm từng đêm bay về"(3), tôi thả đời tôi ra phố, chợt nhận hiểu rằng thành phố thật buồn bởi ngủ chìm sớm quá, "thành phố hoang vu"...(4)

Rồi đến một ngày câu trả lời có thật bất ngờ: tôi nghe thấy lời mách bảo dịu dàng từ những tiếng thì thầm nhẹ như hơi thở của tình yêu trong lời ca của Trịnh. Những bài ca của Anh sao có nhiều đến thế những con đường. Anh không chỉ cho tôi thấy những con đường anh đi là đường phố nào, ở thành phố nào nhưng tôi tin chắc chính ở đây - nơi có giọng nói, Dòng Hương, Núi Ngự... đều là những con đường đưa Anh đến với đời, đến với sự bất tử của tâm hồn Huế, Hồn Việt. Những lời ca của Anh mượt mà hơn cả tà áo dài xứ Huế - bởi cái lung linh ảo tuyệt, cái mộng mị muôn đời của tà áo Huế đã trở thành một phần xương thịt của Anh. Nói đúng ra, Trịnh sẽ không còn là Trịnh nữa một khi ta cắt Huế khỏi trái tim Anh. Chất triết lý giản dị mà sâu sắc của Anh được chắt chiu từ vị thơm cực độ của gừng cay để làm nên cái rượi mát dịu lành của từng con hến; từ vị chát bùi của vả, từ vị chua của khế, vị đắng ngọt mặn mà của chuối hột xanh cùng cái sắc - mềm đến xé lòng của chén mắm nêm...

Trịnh Công Sơn thường tự ví mình như một người sinh ra phải kiếp lang thang. Có phải vì thế mà Anh hát và viết luôn trong sự ám ảnh từ vô thức (unconscious) bởi những con đường, bởi những lần ĐI. Chữ đi xuất hiện thường xuyên và, dĩ nhiên nó phải gắn với những con đường. Chỉ riêng trong bài "Một Cõi Đi Về", từ này được nhắc đi nhắc lại đến 7 lần. 7 là số tầng của địa ngục, số tầng của Thiên đường; số nốt nhạc, số ngày trong tuần, số tận cùng của đời - "hú ba hồn bảy vía"; số duy triết của kiếp người: "ba chìm bảy nổi". Đức Phật (Budha) đã từng ĐI 7 bước trước khi ngộ (Prajnãn). Cầu vồng trước khi "chết" đã lung linh 7 sắc...

Sự ngẫu nhiên (?) của Một cõi đi về chỉ có thể cho ta biết Trịnh đã yêu vô cùng Những Con Đường. Dù có "Hát trên những xác người" Trịnh vẫn hiểu "con đường quanh co" trước lúc mỗi người tìm thấy thân xác của chính mình. Ở giữa rừng xa, đồng vắng Trịnh vẫn "nhớ phố nhớ phường"(5). Không ít lần chàng - mà không trai - si tình họ Trịnh "còn một mình trên phố"(6) thấy "phố xa lạ"(7) ngỡ tưởng "bàn chân qua phố thấy người"(8) nhưng thật ra "ngoài kia không còn nắng mềm, ngoài kia ai còn biết tên"(9). Anh đã có "những con đường lứa đôi"(10); Anh đã từng hiểu "Ngoài phố mùa Đông, đôi môi em là đốm lửa hồng"(11), nhưng Trịnh cũng hiểu rõ "đường nào dìu ta đi đến cơn say"...(12)

Những con đường trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn không chỉ là nỗi niềm, không chỉ là một khát vọng mà còn hơn thế nữa, đó là tình yêu đau đáu và da diết đến quặn lòng của Anh đối với Quê Hương mà tôi cứ tin chắc rằng Huế mãi là phần lớn nhất của trái tim thiên tài nhưng chát lắm những xót xa của Anh. Tên Anh, tôi nghĩ, mỗi ngày đều được "khắc" trên những con đường bởi ai đó đang vừa đi vừa thì thầm những câu ca của Anh; hoặc giả quán cà phê bên đường đang dùng những cái máy hát vô tri, cô độc "khắc" mãi tên Anh.

Tôi là một người được sinh ra và lớn lên ở miền Bắc. Tôi đã từng bị kiểm điểm vì hát "Diễm Xưa" trong những ngày máu lửa nhất của chiến tranh. Hồi nhỏ tôi chỉ nghêu ngao mà chẳng hiểu một chút nào cái day dứt tuyệt vời của Trịnh. Vào Huế, tôi đứng từ xa để thầm ước ao được chiêm ngưỡng Anh, được chạm vào bàn tay tài năng của Anh dù chỉ một lần. Lúc tôi có thể có "quyền" gặp và có quyền "nhìn" (với rất nhiều mặc cảm) những "cây đa, cây đề" của Làng Văn Huế thì Trịnh Công Sơn đã không còn ở Huế nữa.

Nói cách khác, tôi đã từng thấy Trịnh nhưng chưa được GẶP Anh bao giờ. Đó là một nỗi đau thực sự của đời tôi. Giá như tôi có chỉ một chút mạnh dạn thôi, của thế hệ sau này, thì tôi đã không xót xa nhiều đến thế khi nghe tin Trịnh mất, ngày đầu tiên của tháng Tư. Anh ra đi trong ngày mà tất cả mọi người đều có quyền dối trá. Nhưng những giọt nước mắt của một nữ sinh viên (Văn K25 - ĐHKH Huế) đã cho tôi hiểu không bao giờ có sự dối trá trong trái tim người. Đó là tiếng khóc nghẹn ngào, đau đớn của một cô gái người Đà Nẵng.

Gần 3 năm đã trôi qua, nhiều lần tôi ước ao có một con đường - dù nhỏ và ngắn như cuộc đời của Trịnh - để cho tôi có thể đi và đến, với một nỗi niềm, với một phần không thể thiếu của trái tim tôi, nhưng điều mơ tưởng đó vẫn là không thể. Tôi biết Trịnh dù là một Cánh chim cô đơn những vẫn "Đêm từng đêm bay về, quê hương là nỗi nhớ; yêu càng yêu quê nhà, nhọc nhằn trong nắng mưa"(13). Thật tủi tê khi Trịnh viết những dòng chữ ấy. Anh cũng viết thêm rằng "đời nhẹ như lá khô". Trịnh Công Sơn không phải là người đi "rêu rao đời mình"(14) nhưng chắc chắn Anh là một trong những người hiểu rõ cái gì làm nên vẻ đẹp Huế. Tôi tin Trịnh đã nhiều lần đi trong mưa Huế, lầm lũi và cô đơn, nhìn và thấy, đau và khát... Nếu không thế Trịnh làm sao có thể hát "Ru em đầu cơn gió. Em hong tóc bên hồ. Khi sen hồng mới nở. Nụ hồng ôi thơm quá... Ru em hài nhung gấm. Ru em gót sen hồng. Ru bay tà áo rộng. Ru trên đường em đến. Trăm năm vẫn quay về..."(15) Tất cả những điệp khúc năm chữ đó chỉ để nói về con đường - Huế mà Anh đã đi.

Một tên đường cho Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ, cũng có thể là ước mơ của không ít người. Tà áo Huế sẽ đẹp hơn nhiều khi lăn xuống và, bay ngang - chậm trong tiếng nhạc Trịnh; trong những món ăn của  Huế và của Trịnh; trong cái suy tư mà rạng rỡ của mọi du khách nào muốn tìm để hiểu Trịnh. Trịnh là một nét văn hoá phi vật thể mà ta cảm nhận thật rõ ràng. Trịnh là một phần không thể thiếu được của Huế. Đừng chậm trễ để Trịnh Công Sơn nơi xa kia cứ mãi phải tin rằng "cuộc đời đâu biết thế". Đừng để trái tim đã ngừng đập của Anh không có chỗ cho "Tim lăn trên đường mòn"...

Huế, 13-11-2003
T.V.H
(183/05-04)


______________

1 Chiều trên quê hương tôi.
2 Khổng Tử: Bậc trí giả vui thích khi (ngắm) nhìn dòng nước chảy vì nước cứ mãi trôi đi giống như cuộc đời này cứ mãi mãi trôi đi.
3 Cánh chim cô đơn.
4 Cát bụi tình xa.
5 Hành hương trên đồi cao.
6 Chiều một mình qua phố.
7 Bên đời hiu quạn
h.
8 Có một dòng sông đã qua đời.
9 Chiều một mình qua phố.
10 Chiều trên quê hương tôi.
11 Ru đời đi nhé.
12 Bên đời hiu quạnh.
13 Cánh chim cô đơn.
14 Ru đời đi nhé.
15 Ru tình.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG THỊ HUẾ Xứ Huế là một vùng đất có nền văn hóa đặc sắc - vừa mang nét riêng vừa dung hợp với văn hóa Việt Nam và khu vực, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa dân gian, văn hóa đô thị cổ truyền và văn hóa cung đình - mà không vùng đất nào có được.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀM Tìm hiểu diện mạo văn học một vùng đất là tìm hiểu những vấn đề gì?

  • KHẾ IÊM Hãy cứ tưởng tượng, khi hội họa mang đồ vật vào trong tranh (Pop Art, thập niên 60), và rồi tranh lại bước ra ngoài giá vẽ để đi vào thế giới hiện thực (thập niên 70), thì thơ cũng đang có những chuyển biến mới, chụp bắt yếu tố đời sống để sử dụng như yếu tố thơ.

  • HOÀNG TÙNG Văn học đồng tính - LGBT (lesbian, gay, bisexual, transgender) literature đã từng một thời bị coi là đề tài cấm kỵ trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, cùng với những cuộc đấu tranh về quyền con người, đấu tranh về bình đẳng giới, sự thừa nhận của xã hội đối với giới tính thứ ba, đó cũng là lúc dòng văn học dành cho người đồng tính bước từ bóng tối ra ánh sáng…

  • NGUYỄN VĂN TẬN - HOÀNG THỊ ANH ĐÀO Thế kỷ XV - XVII, các nước phương Tây bước vào thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư bản, những cuộc phát kiến địa lý đã mở ra một cuộc “cách mạng thương mại” thực sự ở châu Âu và đưa đến việc thiết lập mạng lưới giao thông mậu dịch hàng hải xuyên đại dương nối liền châu Âu với phương Đông.

  • BỬU Ý Tháng 11-1985, Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải thưởng Nobel cho Claude Simon, nhà văn Pháp theo trường phái mệnh danh là tiểu thuyết mới quy tụ những tên tuổi khác như A-lanh Ro-bơ Gri-dê (Alain Robbe-Grillet - người chủ xướng và lập thuyết), Na-ta-li Xa-rốt (Nathalie Sarraute), Mi-sen Buy-to (Michel Butor), Ro-ber Panh-Jê (Robert Pinget) v.v…

  • NGUYỄN VĂN HẠNH …Xa rời cuộc sống, xa rời con người, xa rời chủ nghĩa nhân văn vốn là linh hồn của văn học nghệ thuật trong sáng tạo, nghiên cứu, giảng dạy văn chương là mối lo lớn và là nguyên nhân sâu xa khiến cho văn chương mất sức sống, mất sức hấp dẫn vốn có…

  • LƯỜNG TÚ TUẤN Mỗi ngôn ngữ tự nó là một nghệ thuật diễn đạt của tập thể.                                 (E.Sapir)

  • ROLAND BARTHES Lôgic học dạy chúng ta biết cách phân biệt thích đáng ngôn ngữ-đối tượng với siêu-ngôn ngữ. Ngôn ngữ-đối tượng chính là chất liệu phục tùng sự nghiên cứu lôgic; còn siêu-ngôn ngữ là ngôn ngữ, không tránh khỏi có tính cách nhân tạo, trong đó ta tiến hành sự nghiên cứu này.

  • TRẦN THIỆN KHANH Chúng ta sống trong một thế giới đầy những quy ước. Có quy ước công khai, thành văn; có quy ước ngầm, bất thành văn. Quy ước nhiều và có sức mạnh đến mức chúng ta tưởng chính nó làm ra chúng ta.

  • TRIỀU NGUYÊN 1. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được một số nhà nghiên cứu xếp vào loại truyện ngắn hài hay truyện ngắn trào phúng.

  • - Cứ trừ dần đi dần đi, có thể còn lại là em, ôi Man Nương (Phạm Thị Hoài) - Đi tới tận cùng của cái vô thức, cùng với nhà thơ, hãy tìm thấy lại giấc mơ nguyên thủy (G. Bachelard).

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY 1. “Người trần thuật kiểu tác giả” hay “tình thế trần thuật của tác giả” là một thuật ngữ được đưa ra năm 1955 bởi nhà nghiên cứu văn học người Áo F.K.Stanzel và sau đó được tu chỉnh bởi J.Kristéva, G.Genette và J.Lintvelt.

  • INRASARA Khả năng nhận diện và tâm thế đón nhận cái mới ít liên quan đến thế hệ. Dù thế hệ mới nhờ ưu thế tuổi tác, dễ làm quen với cái mới, cái xa lạ. Dễ làm quen thôi, chứ chưa chắc đã chấp nhận, nhất là với cái mới trong văn chương. Sự thể cả bốn thế hệ người viết nhận định về thơ tân hình thức và sáng tác hậu hiện đại giai đoạn qua, là minh chứng(1).

  • TRẦN XUÂN AN …Ngẩng đầu/Im lặng/Ai hỏi nhà/Tôi chỉ xuống chân…

  • NGUYỄN THI VÂN Kỷ niệm 150 năm ngày sinh Tagore Trong quá trình tìm kiếm các bản dịch tiếng Hà Lan của đại thi hào Rabindranath Tagore (1861-1941) trong những năm làm việc tại Hà Lan, nghiên cứu gia Liesbeth Meyer đã phát hiện một số thư trao đổi giữa Tagore với Frederik van Eeden (1860-1932) một trong những người Hà Lan đầu tiên đã giới thiệu thơ Tagore đến với xứ xở hoa tuy líp.

  • PHẠM PHÚ PHONG Đối với sự tồn tại và phát triển của một nền văn học không thể không kể đến đội ngũ những người sáng tác trẻ. Đó là lực lượng sung sức, giàu nhiệt tình và báo hiệu những năng lực mới cần được liên tục bổ sung.

  • AN-ĐRÂY ĐÊ-MEN-CHI-ÉP(Phát biểu của nhà thơ An-đrây Đê-men-chi-ép - Tổng biên tập Tạp chí “Tuổi trẻ” trong cuộc hội thảo về thơ nhân Đại hội các nhà văn trẻ Liên Xô lần thứ VIII.)

  • PHAN TUẤN ANH“Ôi, có lý và phi lý lẫn lộn vào nhau, lý trí trong điên loạn” [6,39].