Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du

08:44 08/04/2021

TRẦN NGỌC TRÁC

Như duyên nợ, chúng tôi đã đồng hành cùng nhau qua series ký sự “Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du”(1).

Ảnh: internet

Những người thực hiện series ký sự này không có tham vọng nêu lên những điều to tát về một người nổi tiếng như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chỉ mong kể lại những cảm xúc và một số thông tin mới mẻ mà trong quá trình trở lại những nơi mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng sinh sống, gắn bó để rồi từ đó chính là nguồn cảm hứng bất tận để ông có thể viết nên những ca khúc của mình, những ca khúc giúp ông “hát rong qua những miền hư ảo”như chính ông thừa nhận.

Nhóm làm phim, và những người bạn của Trịnh Công Sơn cùng dạy học tại B’Lao năm 1964-1967: từ trái sang: Nguyễn Văn Ty (thứ tư), Trần Văn Ngọc (thứ năm)


Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ nổi tiếng. Chúng tôi chọn Huế là điểm đến đầu tiên để khắc họa lên ký ức quê nhà mà Trịnh Công Sơn đã lớn lên và nhập cuộc. Ở đó, ông có những người bạn ngày xưa, nay vẫn còn sống. Họ là những nhân chứng cho những huyền thoại về một người nhạc sĩ đã lý giải cho những câu hỏi vì sao qua nhiều thế hệ nhạc Trịnh vẫn được người Việt yêu quý đến như vậy. Kinh đô Huế đã phần nào tạo nên cốt cách của nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn. Gặp được bà Thái Kim Lan, giáo sư triết học ở Cộng hòa Liên bang Đức - người bạn học cùng thời với ông. Bà cho biết: “Không gian Huế đã nuôi dưỡng tâm hồn và trí tuệ thiên tài của Trịnh Công Sơn”.

Những năm đầu 60 của thế kỷ trước ở Huế, Trịnh Công Sơn hợp cùng Đinh Cường, Bửu Ý, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha… thành một nhóm văn nghệ trẻ rất có thế giá, hiện sinh. Âm nhạc của Trịnh Công Sơn là những ngôn từ trừu tượng, siêu hình và rất mới mẻ. Trịnh Công Sơn trở thành một hiện tượng độc đáo trong làng âm nhạc Việt Nam.

Những bài hát của Trịnh len lỏi vào đời sống của người dân nước Việt, ông nói hộ tâm tình của mọi người. Chúng tôi đã gặp ông Nguyễn Đắc Xuân và biết thêm nhiều thông tin về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và đã đến “Gác Trịnh” trên đường Nguyễn Trường Tộ - một thời tuổi trẻ ông từng ở đây và trở thành nơi thường tổ chức các gala hội họa hay âm nhạc. Gặp lại người hàng xóm để biết thêm về ông và gia đình ông... Những ngày ở Huế, chúng tôi rất ấn tượng với cách của những người bạn, những người yêu quý về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Chúng tôi tự hỏi, còn bao nhiêu người bạn và có bao nhiêu người mến mộ Trịnh Công Sơn ở Huế chọn cách giữ gìn, lưu giữ ký ức của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn theo cách riêng của mình để rồi những mạch ngầm cảm xúc kia cũng như con nước của dòng sông hằng ngày vẫn âm thầm chảy mãi.

Một vùng đất khác cũng rất sâu nặng với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đó là Quy Nhơn. Năm 1962, thị xã Quy Nhơn vừa mới khánh thành trường Sư Phạm đầu tiên đào tạo giáo viên tiểu học cho các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Trịnh Công Sơn học khóa đầu tiên. Để quảng bá,Ban Giám đốc nhà trường cho thành lập Ban Văn nghệ. Trịnh Công Sơn làm trưởng ban. Ông đã sáng tác trường ca “Tiếng hát Dã Tràng”làm tiết mục mở màn rất đặc sắc và công phu nhất. Cũng ở nơi đây, Trịnh Công Sơn đã sáng tác những tình ca nổi tiếng như “Biển nhớ”, “Dã tràng ca”… Những tình ca của Trịnh Công Sơn đã gây kinh ngạc cho mọi người thời đó. Những hình ảnh mang đậm nét siêu thực, những ca từ lạ hóa đã gây sự chú ý và chinh phục ngay người nghe. Đây là những năm tháng sáng tác sung sức của ông.

Khi thực hiện series ký sự ở Quy Nhơn, chúng tôi được biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng đến đây vào năm 1998 và có được những bức ảnh và thước phim ghi lại cảnh ông hát với bạn bè trong quán nhạc Thu Vàng, sau đó là ở trường Đại học Quy Nhơn. Cũng dịp này, ông cùng nhóm “Những người bạn” trở lại thăm trường. Cả hội trường nghẹt kín sinh viên. Có những bài ông vừa hát, sinh viên phụ họa hát theo như một dàn đồng ca đã được tập dượt từ trước... Những ngày ở Quy Nhơn, chúng tôi được gặp nghệ sĩ Phạm Ghi - người tổ chức đêm sinh nhật lần thứ 58 Trịnh Công Sơn; ông Lê Văn Nhu - người đã tạo điều kiện và cho phép mở quán nhạc Thu Vàng hát những ca khúc Trịnh Công Sơn; thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Thúy - người thực hiện thành công luận văn về ca từ của Trịnh Công Sơn.

Năm 1964, sau khi tốt nghiệp, Trịnh Công Sơn được điều động lên Bảo Lộc dạy học. Xã hội miền Nam những năm 1964 - 1967 nhiều biến động. Trong thời gian này, Sơn nhận rất nhiều thư của bạn bè từ Huế gửi đến, những phong thư dày cộm làm ông bồn chồn, lo lắng. Ba tháng hè, ông ở Bảo Lộc và tập “Ca khúc Da vàng” được khai sinh từ những đêm mất ngủ đó. Lần đầu tiên, người ta nghe những ca từ lạ lẫm, không giống như những tình ca trước kia, mà là những ca khúc nói lên nỗi khổ của con người trong chiến tranh “Gia tài của mẹ”, “Đàn bò vào thành phố”, “Người già em bé”, “Người con gái Việt Nam da vàng”, v.v. Lời ca thật xúc động, nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm can, tỏa lan dần khắp cơ thể làm cho bải hoải tứ chi.

Điều lý thú là chúng tôi đã gặp được người bạn cùng thuê chung một căn hộ, ăn cơm tháng cùng nhau với Trịnh Công Sơn; đó là ông Nguyễn Thanh Ty. Sau ba năm “săn tìm”, một ngày tôi được tin ông từ Mỹ về Việt Nam. Tôi đã chủ động gọi điện, xin gặp và hẹn một cuộc phỏng vấn ngay tại Nha Trang. Chúng tôi đã “điều” thầy giáo Nguyễn Văn Ngọc (bạn thân của Trịnh Công Sơn và ông Ty) từ Bảo Lộc về Nha Trang. Cuộc gặp bất ngờ, nên chúng tôi có những thước phim vô cùng quý giá. Từ câu chuyện của ông Ty, chúng tôi lại lặn lội về thành phố Hồ Chí Minh và gặp được người con gái - nguồn cảm xúc cho Trịnh Công Sơn viết nên ca khúc “Lời buồn thánh”. Đó là một tín đồ theo đạo Phật - cô giáo dạy Anh văn Trương Thị Ngọc Ngà.

Tại Bảo Lộc, chúng tôi gặp được bác sĩ Nguyễn Văn Vân, chồng nữ nhạc sĩ Trần Ái Lan - người được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đỡ đầu, động viên làm nên một album ca khúc hay; tìm đến ngôi nhà Trịnh Công Sơn thuê ở, nơi Trịnh Công Sơn ăn cơm tháng, trường Bảo An - nơi Trịnh Công Sơn dạy học…

Một vùng đất khác lưu dấu kỷ niệm với Trịnh Công Sơn là thành phố Đà Lạt. Từ B’Lao, cuối tuần, ông thường theo xe đò về Đà Lạt gặp gỡ bạn bè. Quán cà phê Tùng là chốn thân quen. Nơi này vẫn còn giữ một góc nhỏ nơi Trịnh Công Sơn thường ngồi đợi bạn. Ông gặp ca sĩ Khánh Ly tại hộp đêm Tulipe Rouge, khi ông nhận ra cô ca sĩ này có giọng hát lạ phù hợp với những bài hát của mình. Chúng tôi gặp nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng - người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn. Ông bảo: “Sự cống hiến lớn lao của Trịnh Công Sơn với xã hội, chính là một sự nghiệp ước vọng cho đất nước hòa bình yêu thương”.

Chúng tôi được gặp nhà sử học Trần Viết Ngạc - người từng làm bầu “show” cho Trịnh Công Sơn khi tổ chức các đêm nhạc ở Quy Nhơn, Sài Gòn, Đà Lạt trước năm 1975; thạc sĩ Đỗ Thị Phương Lan - người đã làm luận văn về âm nhạc Trịnh Công Sơn và được chính ông giúp đỡ tạo điều kiện. Chúng tôi trực tiếp gặp con gái, con trai ông bà cà phê Tùng để hiểu thêm những ngày Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường có mặt ở đây; gặp chị Cao Thị Quế Hương - người đã tổ chức đêm văn nghệ cho Trịnh Công Sơn ở trường tư thục Việt Anh, Viện Đại học Đà Lạt. Người phụ nữ được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết riêng một ca khúc khi bị giam trong nhà tù.

Cũng như Huế, những người bạn ở Đà Lạt, những người từng gặp ông đều có cách lưu giữ riêng về Trịnh Công Sơn. Những câu chuyện của ông ở vùng đất này càng trở nên lung linh hơn và nhờ vậy mà Trịnh Công Sơn vẫn sống mãi với thời gian mà ông đã từng đặt chân đến đây.

Với Sài Gòn những năm 60 sôi sục tinh thần yêu nước của học sinh sinh viên, Quán Văn là tụ điểm sinh hoạt văn nghệ của TNSV Việt Nam ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Nhưng phải đến khi Trịnh Công Sơn và Khánh Ly cùng xuất hiện một lúc với “Ca khúc Da vàng”, Quán Văn mới trở thành một hiện tượng. Bằng chiếc ghi-ta thùng và giọng ca huyền thoại Khánh Ly, những bài tình tự quê hương và thân phận con người được hát vang lên và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả sinh viên cuồng nhiệt đêm đó.

Ngày 30/4/1975, Việt Nam chấm dứt chiến tranh, Trịnh Công Sơn và những người bạn “hộ tống” ông lên Đài phát thanh Sài Gòn hát “Nối vòng tay lớn” - một bài hát nói lên niềm khao khát hòa bình, thống nhất. Ước mơ hòa hợp dân tộc hai miền Nam - Bắc. Nhưng mãi đến năm 1980, Trịnh Công Sơn mới bắt đầu sáng tác lại. Tác phẩm của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng như: Chiều trên quê hương tôi, Em còn nhớ hay em đã quên, Huyền thoại mẹ, Nhớ mùa thu Hà Nội, Tiến thoái lưỡng nan, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Lặng lẽ nơi này, Xin trả nợ người, Lời thiên thu gọi... Những sáng tác này thường là tình ca, không có bài hát nào liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho các phim. Nội dung thường nói lên thân phận con người, kiếp người trong cõi tạm, mang đậm chất Thiền. Ca khúc cuối cùng ông sáng tác trên giường bệnh là bài Biển nghìn thu ở lại.

Và ngày 01/4/2001, Trịnh Công Sơn qua đời, “con chim nhỏ hát chơi trên đầu ngọn lau” không còn nữa, vết chim hạc để lại trên cõi trần đúng 62 năm.

Khi thực hiện các thước phim ở thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã gặp rất nhiều người từng gắn bó với Trịnh Công Sơn. Một chị phụ trách ở Bình Quới tặng cuốn phim “Đất khổ” sản xuất trước năm 1975, Trịnh Công Sơn đóng vai chính. Phim chiếu được hai xuất thì bị chính quyền Sài Gòn tịch thu và cấm chiếu...

Ký sự Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du dài 5 tập do chúng tôi thực hiện đã tổ chức ghi hình, đi lại hơn 5 tháng ròng rã qua các tỉnh thành mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng đặt chân đến. Ký sự đã mang đến cho khán giả thấy một góc nhìn của những nhân chứng, những con người bình thường tình cờ gặp gỡ… là những thước phim dung dị đời thường, ekip làm phim đã công phu đi đến nhiều nơi cho ta thấy những mảnh ghép cuộc đời người nhạc sĩ đã đi qua.

Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài hoa của nước Việt mà cuộc đời ông mãi mãi là nguồn cảm hứng cho mọi người sáng tác. Hình ảnh đôi mắt trong sáng của anh Hải - một gã bụi đời ngày xưa và hai bạn nhỏ (đại diện cho thế hệ trẻ sau này) say sưa đàn hát bên ngôi mộ Trịnh trong một buổi sáng mưa phùn bay lất phất là một hình ảnh đẹp khép lại thiên ký sự, nhạc Trịnh luôn biết cách đi vào trái tim con người như vậy.

Dù nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã rời cõi tạm gần 20 năm nhưng ông luôn giữ một vị trí quan trọng trong trái tim những người bạn của mình, những người yêu bài hát của ông, là sợi dây kết nối cho những ai quen biết, quý mến Trịnh Công Sơn đến gần với nhau hơn trong một niềm yêu thương vô bờ bến.

T.N.T
(SHSDB40/03-2021)

--------------------
(1) (Kịch bản: Ngọc Trác, Thanh Hưng. Đạo diễn: Đức Đệ. Cố vấn chương trình: Trần Ngọc Trác).





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).