HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Hôm ấy là một hôm trời đặc biệt mù sương, khói sương như những tảng bông tan loãng và ẩm ướt, rây rây bụi trong không gian.
Minh họa: Nguyễn Thiện Đức
Song dù có mù sương, dù có không nhìn thấy mặt nhau như thế nào, các sinh vật sống trên thế giới vẫn tiến hành các cuộc mua bán thường lệ. “Có thể không ăn sáng nhưng chúng tôi vẫn tiến hành các giao dịch thông thường” - Vẹt Xám, biên tập viên Hãng tin Sân Ga thông báo trên trang mạng nhà được phát trên một màn hình led dán ở bức tường lớn ngay giữa sân ga. Các sinh vật tiến hành các phiên giao dịch sôi động, hoặc vô tư, hoặc thủ đoạn, toan tính. Người ta giao dịch bán mua đủ thứ ở sân ga đó: kẻ bán xôi đậu, khoai lang, thức ăn nhanh (...), tài nguyên, rừng, xăng dầu, vũ khí, thuyền bè... và dĩ nhiên là có cả cà phê.
Ông lão Điền tuổi trên bảy mươi nói “Cho ông một li cà phê không đường”. Cô cháu gái Jeny Duyến nhìn ông: “Ông chờ một chốc nữa nhé, trong phiên giao dịch đầu tiên ông sẽ được mời cà phê mà”. Lão Điền ngước mắt lên không, ông tìm đỉnh cao tòa nhà building có đến cả hàng trăm nghìn tầng nhưng không thấy gì ngoài màn sương trắng đục, tất nhiên là càng không thể thấy tách cà phê sóng sánh mà ông đang cần trong một buổi sáng như thế này và thở dài.
Jeny Duyến trong trang phục quần jean áo pull mở nút ngực điệu đà, chân mang giày thể thao và chiếc ba lô nhỏ đeo sau lưng gọn gàng, đi như bước nhảy hoàn vũ đến trước quầy lễ tân. Gã nhân viên có cái miệng rất to, đôi tay rất dài xả cả luồng khói thuốc vào mặt cô gái như một động cơ xe máy hở pittong: “Cần gì cô em?”. Jeny Duyến cười, khẽ cúi người một chút, cái cổ áo trễ tràng một chút. Quả nhiên mắt của gã mở to gấp ba và chiếu 45 độ xuống khuôn ngực đầy đặn của cô gái, tai gã bị một giọng ngọt như đường chọc thủng: “Anh cho em hai vé lên phòng 8876 của tầng 88972 anh nhé”. Con mắt lồi không rời khuôn ngực, đôi tay dài xé ngay hai chiếc vé, và cái mồm rộng ỡm ờ: “Chúc may mắn nhé, em có thể để lại số điện thoại không?”. Jeny Duyến hào phóng một nụ cười bạch kim: “Lòng tốt sẽ được đền đáp mà” và bỏ đi, miệng chu lại: “Một con đười ươi put (mập) sao!?”
Hai ông cháu vào thang máy và ngồi xuống bên cửa kính nhìn ra sông. “Cháu quên mất là phải lấy cà phê vào đây uống, thời gian mất khoảng hai mươi phút đó ông”. “Ông biết mà, đã bảo lại không nghe”. Ông dán mắt vào cửa kính cố tìm một cái gì đó bên ngoài, nhưng sương vẫn không tan, trắng đục như sữa.
Ông cố của lão Điền tên là Lúa, đã mất một trăm năm trước, trối trăn cho lão bốn điều, trong đó điều thứ nhất: “Ở phía Nam, ta có một người bạn gái, năm nào vào ngày này tháng này cũng tặng ta một món quà, sau này không còn ta hay bà ấy nữa, con cháu họ vẫn sẽ gửi, cháu gắng đi nhận”. Ông tưởng tượng ra cảnh tượng ông cố Lúa, trên một chiếc thuyền đánh cá ọp ẹp. Năm nào đó ông ra khơi câu và một con cá kình lớn đã kéo ông và chiếc cần câu tri kỷ xuống phía Nam, dạt vào hòn đảo mà những cô gái da ngăm ngăm không bao giờ dứt nụ cười trên môi. Con cá ông bắt được là con cá lớn nhất mọi thời đại, khiến bao cô gái ở đó bị khuất phục. Ông đắm say và ở lại đến mười năm mới trở về bản quán. Inkilabana, người tình lãng mạn của ông, từ đó năm nào cũng gửi tặng cho ông một món quà.
Thang máy dừng, cửa mở. Hai ông cháu lên một chiếc xe điện chờ sẵn và Jeny Duyến bấm số 8876, gần như lập tức, xe đến ngay trước cửa phòng. Một con thỏ như là thỏ bông trắng tinh xuất hiện, giọng vui vẻ: “Mời quý khách vào”. Cửa mở, một con chim xanh ngồi sau chiếc bàn giấy cúi rạp người: “Kính chào quý vị!” và khoác cánh chỉ vào hai chiếc ghế đặt sẵn. Hai ly nước được đặt trên bàn. Ông lão Điền nhăn mặt: “Không có cà phê sao?”. Chim Xanh cười, đôi mắt tròn thiệt là tròn dịu dàng: “Ông thông cảm nhé, thời gian giao dịch quá ngắn, không đủ để uống một tách cà phê”. “Chúng tôi có gì?” - Jeny Duyến hỏi: “Một chiếc lông chim trĩ”. Jeny cau mày “Tệ đến thế sao”. Ngày trước chim trĩ hiếm, nhưng sau này, khi thế giới đã nhân bản được, nó không còn quý nữa. Nhưng ông lão Điền thì rất vui: “À lông chim trĩ, nhà ta chưa có, cám ơn. Chúng tôi sẽ gửi thư cám ơn cho họ sau”, ông lão Điền nói, “Cám ơn cô Chím Xanh nhiều, chúng tôi đi đây, không dám làm mất thì giờ của cô”.
Họ lại lên xe điện và cô gái ấn số 0008 để đến phòng lễ tân, chuẩn bị lên tầng khác. “Ông có cần một ly cà phê không?”. “Có lẽ không, giao dịch sẽ rất nhanh và chúng ta sẽ uống cà phê ở nhà, được không?” Cô cháu gái gật đầu. Họ lên phòng 99883. Một con gà trống khoác cái mào đỏ chói rộng vành trông rất chảnh mời họ vào. Một chàng trai lịch thiệp nhã nhặn mời cả hai ông cháu ngồi và thông báo: “Hôm nay có một tình yêu gửi đến quý vị, một chiếc bánh chocolate, và một bài thơ”. “Hay quá”, ông lão Điền reo lên. Jeny Duyến im lặng. Ông lão nói cho cả hai cùng nghe: “Ngày xưa, có một lần người ta tuyển thợ kỹ nghệ, ông cố Lúa của tôi lên tàu sang phía Tây. Ở đó, đôi tay tài hoa của ông khiến rất nhiều cô gái mê mệt, trong đó có Jenny Usara. Đến khi ông cố Lúa của tôi quay về, Jenny Usara không chịu nổi, cắt mái tóc vàng huyễn hoặc trao cho ông và bảo đến một trăm nghìn năm sau, vẫn sẽ có quà tình yêu gửi về xứ sở của ông. Chàng trai lịch thiệp: “Chúc mừng hai ông cháu, xin chúc may mắn”. Jeny Duyến xin phép mở quà. Đó là một chiếc bánh sô cô la vừa phải, nhưng độ tinh xảo thì quá hoàn hảo. Phía trên chiếc bánh, đôi gà tây đang khiêu vũ, và từ chiếc bánh, giai điệu của bài dân ca Pháp Frère Jacques (Kìa con bướm vàng) vang lên. Mắt ông lão Điền rơm rớm. Jeny Duyến thì ngây ngất nhìn và cô nhìn chàng trai: “Cám ơn anh”.
“Có lẽ ông cần một tách cà phê ngay bây giờ cháu gái ạ”, “Vâng, ta sẽ dùng cà phê ở quầy lễ tân”. Cô nắm chặt tay ông lão. “Không biết ngày xưa sao mà tình yêu lại thiêng liêng đến thế?”, Jeny Duyến hỏi giữa trống không. Khi cà phê được đem đến, ông lão Điền nhấp một ngụm thỏa mãn và nhìn cháu gái: “Biết vì sao thiêng liêng không? Là vì họ biết sống cho tình yêu”.
Tầng 56374. Món quà từ phía đông. Người cha của ông cố Lúa ngày xưa trong một trận thủy chiến, cứu công chúa vương quốc Đông Jagha, được vua vời làm phò mã, ông xin phép được chối từ bởi có người vợ hiền đang mong chờ ở quê nhà. Công chúa Đông Jasha cảm kích tấm lòng son sắt thủy chung, lưu ông lại mấy hôm và tình yêu của họ nảy nở. Đến khi ông quay về, nàng cởi dải yếm tặng ông, như một dấu thề. Hai ông cháu vào phòng 56012. Hai nàng Thanh Xà, Bạch Xà cực kỳ lộng lẫy mời họ ngồi. Ghế quả nhiên là hết sức thú vị, bởi đó là những con rùa. Thấy ông lão ngần ngại, con rùa nghểnh cổ lên: “Quý khách cứ ngồi đi, lương của tôi ở đây rất cao”. Câu nói khiến ông lão Điền phì cười và thoải mái ngồi lên con rùa. Thanh Xà bảo: “Món quà của ông lần này là một chiếc vỏ ốc”. Một chiếc vỏ ốc từ biển phía đông đẹp đến mê hồn. Nó ánh lên những vũ điệu tình yêu. Nó lung linh những âu yếm và dát lên mắt người xem những lời tình tự. Ông lão cầm chiếc vỏ ốc đưa lên miệng thổi, một không gian lập tức ngập chìm trong giai điệu cổ xưa, đầy tiếng lạu phất phơ và đường gươm múa linh động và nghiêm cẩn, trung tín... Jeny Duyến ngồi thừ người, có lẽ tương lai ta sẽ sang phía Đông du lịch xem có gì ở đó mà bí ẩn vậy, cô tự nhủ.
Hai ông cháu đến tầng 77777 để nhận món quà cuối cùng, từ phía Bắc. Những chặng lên xuống thang máy, đi xe điện và những cảm xúc dâng trào khi nhận quà đã khiến họ mệt. Ông lão ngồi uống chai bia và Jeny Duyến gọi cho mình một chanh rum. Ông lão nhìn ra cửa kính và cảm thấy lạ bởi đã xế trưa rồi mà sương vẫn không tan, vẫn vần vũ như những tảng bông loãng phía bên ngoài. Có tiếng ồn ào trong quầy căn tin. Bấy giờ ông lão mới nhận ra tiếng ồn thoát ra từ bàn bên cạnh, nơi một số thanh niên đang tụ tập uống rượu. À, hôm nay là ngày chủ nhật, ngày họ có thể uống rượu từ sáng đến chiều. Hình như cuộc rượu cũng chỉ mới bắt đầu. Một người trong họ tuyên bố, cứ mỗi chuyến tàu qua là toàn bàn uống hết một li. Cả bàn vỗ tay hoan hô nhất trí. Ông lão nhìn họ vừa cảm thông vừa âu lo. Ngày xưa ông cũng có những cuộc rượu bất tử như thế, uống mà không biết mình sẽ đi tới đâu, để làm gì, chỉ biết uống cho say chết bỏ, cho chứng tỏ ta đây tửu lượng kinh người, cũng để giải bày cái gì đó, hay để như thế nào đó, không cần biết, chỉ biết uống càng nhiều càng tốt, thế thôi. Ông chợt lo khi một chàng trai đang liếc nhìn cháu gái ông. Ông biết Jeny Duyến rất mê chơi và uống rượu rất được. Ông lo vậy và biết mình lo hão, ngày xưa của ông rồi cũng qua đó thôi.
Ông nhìn ra cửa, sương vẫn trắng như bông...
Ông quay lại, Jeny đã bỏ đi đâu mất rồi. Ông hoảng hốt rồi nhận ra Jeny đã lớn. Nó có đi theo lũ con trai uống rượu thì cũng chịu nó chớ sao. Thôi thì tự mình đi nhận quà một mình vậy. Ông đến phòng 7701, bước vào và khép cửa lại. “Anh khóa cửa giùm em với” - một bóng ma hồ ly tinh xinh đẹp hiện ra mỉm cười quyến rũ ông. Bất giác ông cũng khóa cửa như một phản xạ tuân lời. Phòng không có bàn ghế, chỉ có một chiếc giường kê kín đáo trong phòng. “Hôm nay em chỉ có anh là khách thôi, ngoài ra không còn ai khác. Chủ nhật anh à, thoải mái đi”. Ông lão lúng túng, tay chân run rẩy. “Em có thuốc cho anh đấy, anh uống nước đi”. Bóng ma ảo huyền xinh đẹp vừa nói vừa bưng ly đưa lên miệng ông, khuôn ngực áp chặt vào người ông. Ông vừa dằn lòng từ chối nhưng tay ông vẫn theo tay cô gái ma mị, miệng ông vẫn uống nước thuốc của cô gái. Và ông thấy tự nhiên mọi nỗi sợ hãi tan biến, ông trở lại là chàng trai hai mươi.
Ông mơ thấy một tráng sỹ bị giải đến trước một chiếc bàn lớn có rất đông quân lính ngồi quanh. Trên bàn có một chiếc đầu lâu đặt trên chiếc dĩa có một cây dao gác sẵn. Bên cạnh có một bình rượu bốc mùi thơm phức. Đám đông quân lính bu quanh và nói: “Này tráng sỹ, xem tráng sỹ có gan lớn đến chừng nào?”. Chúng nói rồi cười hô hố. Tiếng cười của chúng tắt hơi im bặt bởi tráng sỹ bỗng ngửa mặt cười lớn: “Một bữa nhậu thịt đầu lâu, mơ đã lâu nay mới toại nguyện, cám ơn lòng tốt của quý vị”. Tráng sỹ cầm lấy dao cắt một cái tai, uống bát rượu lớn. Tráng sỹ uống đến đâu, đám đông bu quanh vỡ mật chết đến đó. Rồi tráng sỹ bước vào trong, cứu cô gái ra khỏi vòng vây: “Nàng cầm cây dao này và chạy thoát đi, ta sẽ chặn quân giặc tham lam cho nàng”. Quân giặc vây lại, và những nhát dao cứa vào tráng sỹ làm cho ông đau đớn...
Ông quả nhiên đã đau đớn và kiệt sức. Gần như ông đã bị vắt đến kiệt sức, bóng ma hồ ly ngồi dậy, vắt sỗ sàng sợi quần mỏng lên mặt ông.
Ông ra khỏi phòng với món quà trên tay mà không kịp nghe hay nói một tiếng gì.
Món quà trên tay ông là một cây dao cổ.
Ông gọi Jeny Duyến ơi...
Khi ông ra đến sân ga, trời vẫn mù mịt sương.
Ông tuyệt vọng ngồi xuống. Ông đang nghĩ đến chuyện khi ông giã từ cõi đời này, ai sẽ thay ông đi nhận các món quà?
Bỗng nhiên điện thoại của ông bíp bíp. Tin nhắn của Jeny Duyến. Không biết cô gái nhắn gì mà ông lão Điền nở nụ cười trong sương.
H.Đ.T.N
(TCSH377/07-2020)
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.