Trên đồi Vọng Cảnh

11:17 10/09/2008
TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

Hình ảnh người du khách của Rosane Rose vẽ ra trong Bút ký Du Lịch của bà ta đăng ở báo Travel Time có vẻ hơi khó hiểu đối với một người thích du lịch nhưng lười phân tích như kẻ viết bài nầy. Nếu như có một người du khách đứng ở hành lang của tháp Eiffel nhìn xuống dòng sông Seine đang chảy qua thành phố Paris ở dưới kia thì trong mắt nhìn của người đó là cảnh một góc nhỏ của thủ đô Pháp và cảm nhận là thích thú hay ngán ngẩm mà thôi. Tại sao người đó lại biến thành “mắt nhìn và cảm nhận” của chính anh ta hay chị ta được kìa? Nếu đấy là hình ảnh tiêu biểu của một du khách đang thăm viếng Paris thì lại càng khó hiểu hơn.
Nếu không có một buổi chiều lộng gió tháng Năm vừa qua, đứng trên đồi Vọng Cảnh, nhìn xuống ngã ba sông Hương ẩn hiện trong khói sóng và cảm nhận có một Huế trầm lặng đang lẩn khuất miên man sau màn sương xa tắp dưới kia...

Đồi Vọng Cảnh Huế không bao giờ là “một” đối với tôi cả.  Hình ảnh và ý nghĩ về ngọn đồi quê hương ấy không ngừng thay đổi qua thời gian và hoàn cảnh tâm lý. Thuở học trò, được thầy, cô giáo dắt đi du ngoạn trên đồi Vọng Cảnh, tôi chỉ còn giữ kỷ niệm đã thuộc về ký ức qua đôi mắt tuổi thơ. Ở đó, có một cái “lô cốt” thời Pháp thuộc nằm trên đỉnh đồi cỏ tranh hoang sơ. Xa dưới kia là dòng sông Hương và cây xanh, xóm làng của Huế, chẳng có gì đặc biệt. Giấc mơ và tầm nhìn tuổi thơ là hoa bướm năng động; là những tổ chim trên cây xoài, cây ổi trái chín mọng vàng.
Khi đến tuổi hẹn hò, hai đứa đạp xe đạp lén lên đồi Vọng Cảnh.  Đỉnh đồi đầy trái sim, trái móc đầu sông ấy mờ nhạt và trở thành một dấu ấn viễn tưởng, hứa hẹn cho những gì chỉ “hiện thực” trong ước mơ.
Tuổi sáu mươi, về lại Huế, đứng trên đồi Vọng Cảnh; cảnh và người mới thấy rõ nhau hơn. Khi sự hoài tưởng so sánh gợi lại những vùng sông núi nổi tiếng của xứ người đã đi qua, tôi mới thấy lạnh mình cảm nhận vẻ đẹp đầu nguồn của điểm ngắm thu tóm tầm nhìn bao quát về một quê hương khói sương như huyền thoại trải dài trước mắt. Ở đó có sông núi, xóm làng, ruộng vườn và con người lặng lẽ hòa quyện với thiên nhiên. Trên đỉnh đồi thông xanh còn trẻ, đứng sát mé bờ sông, để tầm nhìn xuôi dòng về Huế, tôi có cảm tưởng mình nhỏ dần như con kiến cỏ, rồi tan loãng và rơi vãi xuống ba nhánh sông dưới mé đồi đang hợp lưu trôi về biển cả.  Trong mắt nhìn lúc đó, kẻ ngắm nhìn đang biến thành đối thể, phá hết rào dậu giữa Ta và Người  để cảm nhận trực tiếp Người cũng là Ta. Vâng, tôi đã hiểu ý của Rosane Rose về sự trải nghiệm của tâm thức hòa quyện ngắm nhìn, về “điểm đạo” - là khi con người nhìn thiên nhiên, cảnh vật bằng đôi mắt của tâm hồn - tuyệt vời của văn hóa du lịch! 
Từ trên đỉnh đồi Vọng Cảnh, tôi miên man nghĩ đến một “nghệ thuật du lịch” của Việt và của Huế.
Có dịp đi đường bộ từ La Mã tới Luân Đôn mới thấy được những nét đặc trưng của vành nôi văn hóa châu Âu.  Đi từ Florida tới  Seatle để thấy vòng đai văn hóa di dân hợp chủng Mỹ; từ Cà Mau tới Quảng Ninh để thấy nét văn hóa làng xã và thiên nhiên Việt . Những điểm nóng du lịch trong khung cảnh thiên nhiên Âu Mỹ thường có bàn tay nhào nặn và sự can thiệp của con người về điểm ngắm, góc độ và giới hạn. Thiên nhiên du lịch Việt Nam tương đối còn nhiều khung cảnh “trinh nguyên” vì kỹ thuật du lịch của Việt Nam phần lớn đang ở giai đoạn định hình trong một quá trình hình thành các tụ điểm du lịch gồm 5 bước: chọn lọc, định hình, xây dựng, quảng cáo - giới thiệu - và hoạt động.
Đồi Vọng Cảnh đáng lẽ phải là một tụ điểm du lịch thu hút độc đáo nhất ở Huế do vị trí thiên nhiên, sông nước hữu tình. Vùng đỉnh đồi để ngắm cảnh nầy vẫn còn đang vắng bóng bàn tay khai phá và sự đầu tư du lịch của con người. Thế nhưng, một sự đầu tư dễ dãi ở dạng dịch vụ (service) “gần đâu xâu đó” theo kiểu mì ăn liền và quán ăn nhanh, điển hình cho thời đại máy móc thực dụng như khách sạn, hàng ăn, nhà khách... ở một vị trí kỳ tú như đồi Vọng Cảnh chắc chắn sẽ làm hỏng khung cảnh thiên nhiên có một không hai nầy của Huế.  Rất may cho Huế và cho những điểm nóng lịch sử của ngành du lịch Việt Nam trong tương lai là đồi Vọng Cảnh vẫn còn đang dọn mình đứng đợi những công trình nghệ thuật du lịch xứng đáng với tầm vóc mỹ thuật, truyền thống con người và lịch sử của từng miền đất nước.
Từ trên đỉnh đồi Vọng Cảnh, tôi nhớ lại những quán trà, cà phê nghệ thuật nhiều nơi ở xứ người thường được đặt trong những khung cảnh thiên nhiên làm cho du khách cảm thấy thú vị đến ngẩn ngơ. Dòng tưởng tượng của tôi chưa trôi đi xa đã bắt gặp thực tế hình ảnh những chuyến thuyền du lịch đi ngược dòng Hương, hướng về đồi Vọng Cảnh. Tôi tự hỏi bâng quơ rằng, làm sao sông nước thanh tú của Huế lại phải chịu đựng cưu mang những chiếc “thuyền rồng” thiết kế theo mô thức vàng mã và cách trang trí hội hè đình đám như những cô gái quê thon thả, đẹp mặn mà mà phải mặc áo diễn tuồng trong ngày hội.
Chính nghệ thuật đã nắm bắt được linh hồn của du lịch. Tôi đã từng được nghe một du khách đồng hành người Bắc Âu nói rằng, trong suốt chuyến du lịch hai tuần lễ của ông ta ở Âu Châu, có thể ông ta sẽ quên hết. Nhưng nếu ông còn nhớ được những đường gân trên tay của tượng David do thiên tài điêu khắc Michelangelo khắc họa từ thế kỷ 16 thì cũng đã thỏa mãn lắm rồi.
Từ đó, tôi ước mơ một viễn ảnh nghệ thuật trên đồi Vọng Cảnh. Ước mơ rằng, ngoài nhà thờ công chúa Huyền Trân mới được xây dựng mang tính hương khói Huế xưa ở khu vực Chín Hầm sau vùng nghĩa trang thành phố Huế, sẽ có một tượng đài công chúa Huyền Trân mang tính nghệ thuật. Vóc dáng cuộc đời và lịch sử trĩu nặng tình tự núi sông của Huyền Trân xứng đáng một tượng đài có chiều cao của mỹ thuật và chiều sâu của nghệ thuật. Huế cần một điểm đứng phong quang có hồn, có phách cho một bậc anh thư - bảy trăm năm trước đã đổi mình lấy Huế -  trên đỉnh đồi Vọng Cảnh. Và, Huế ơi! Thử tưởng tượng một ngày nào đó có những chiếc thuyền du lịch thiết kế riêng cho Huế - chỉ cần nhỏ nhắn, ít tốn kém như những chiếc thuyền gỗ “gondola” hình dáng thanh tú của Ý trong thành Venice mà thôi - sẽ chạy ngược dòng Hương từ cầu Trường Tiền ghé lên đồi Vọng Cảnh. Thuyền cặp bến, khách sẽ lên đồi. Nơi đó đã có sẵn một quán trà, cà phê nghệ thuật hợp bóng với tượng đài Huyền Trân. Khách nhấm trà trong sương khói và nhìn về một Huế xa xa nằm cuối dòng sông, lặng lẽ dưới chân đồi.
Con người đã nói với nhau quá nhiều. Du lịch tương lai sẽ để cho thiên nhiên và tượng đài, nghệ thuật chuyển tải những thông điệp trực tiếp qua đôi mắt và cảm nhận của con người trong im lặng.
                                                        Napa , đầu năm Tây 2008
                                                                        T.K.Đ

(nguồn: TCSH số 229 - 03 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.