Trên đồi Kà Mạ

16:08 14/05/2009
NGUYỄN THÁNH NGÃĐêm nay trăng nhão, không biết là đêm trăng gì. Ở xa nhìn về đồi Kà Mạ vẫn một khối đen sì. Nếu có ai nhướn mắt nhìn thật kỹ sẽ thấy cái khối đen sì ấy nhô lên như một cái đầu người đôi mắt lấp láy đom đóm. Thỉnh thoảng gió hất cái đầu tóc rối bù xù bay về phía ruộng. Tiếng chim cú kêu mỗi lúc một thê lương, ớn lạnh từng đốt xương sống...

Kà Mạ là tên thật của lão, nhưng cũng có người gọi là Cò Ma, thứ nhất là cho dễ kêu, thứ hai là trông bộ dạng nhếch nhác, thất thểu của lão thì đúng là một con Cò Ma thật. Lão hành nghề thầy mo đã mấy chục năm rồi, cái nghề bí truyền của dòng họ cho đến đời lão mới được phát đạt. Lão làm chủ nguyên một quả đồi màu mỡ nổi lên giữa cánh đồng xanh tốt. Quả đồi còn mang trên mình nó dấu tích của người xưa. Rõ nhất là một nghĩa địa, nơi chôn cất nhiều thế hệ đi qua với phần của cải chia cho người khuất núi như: chum ché, nồi niêu, chén bát... Lão canh giữ cái di sản ấy với nhiều bí thuật ma quái khiến người nhập cư không ai dám bén mảng tới đây.

Vợ thầy mo là một người Kinh với dòng lý lịch cụt ngủn: Mệ Lượm! Mệ Lượm có nước da trắng như phấn. Chỉ bấy nhiêu thôi đã là một thứ của quý đối với những cô gái bản địa. Có điều đôi mắt của Mệ Lượm không được trong, luôn có những tia máu đỏ chạy quanh cái nhìn; và cái miệng hơi to không đủ sức giấu hai hàm răng đẹp như những hạt bắp, khắng khít, không hở một kẽ nào. Người ta nói mẹ của Mệ Lượm có nhiều ma ngải mới mua được Mệ Lượm từ nhỏ và lớn lên bắt cái chồng cho Mệ Lượm là lão Kà Mạ bấy giờ. Nhưng trong cái bụng của Cò Ma có nhiều con ma ở quá, Mệ Lượm phải một thời lao đao dở sống dở chết với lũ yêu ma của chồng. Mà Mệ Lượm lại là chủ nhà nên nó quấy, nó vật Mệ Lượm tơi bời, Mệ Lượm trở thành bà điên của buôn K'Ràng. Người điên đâu biết sợ ma nên cái nghĩa địa kia vô tình đã trở thành nơi ăn ở, đi về của Mệ Lượm. Đêm đêm Mệ rú lên. Tiếng rú vọng xa ba quả đồi, dội trong từng hốc núi từng hồi kinh dị. Ấy là những đêm có trăng, lũ chó sủa rời rạc vào hư không nghe buồn một nỗi buồn trống rỗng, trống đến tan ra từng mảnh vụn rồi lại nhập lại, rồi tan ra nhập lại tận vô biên. Cho đến một buổi trưa nào đó người ta thấy Mệ Lượm ôm một khúc cây đi xuống mé sông. Bình thường Mệ Lượm rất sợ nước, nhưng như có ma xui khiến, Mệ ôm khúc gỗ nhảy ùm xuống sông và biến mất... Cứ thế, người ta thấy Mệ Lượm xuất hiện, nhảy sông rồi biến mất. Và lại xuất hiện. Một hôm trở trời Mệ Lượm đi đứng không được bình thường nữa, người ta mới vỡ lẽ ra là Mệ Lượm có mang. Cái tin khủng khiếp ấy bay đến tai lão Kà Mạ trong lúc lão đang nhập đồng nhập cốt.

Mệ Lượm trở nên hiền dịu trong cái ổ rơm mà 1ão Kà Mạ lót cho ở một góc vườn có con suối nhỏ róc rách chảy ra bờ ruộng; rồi từ bờ ruộng um tùm hai hàng chuối xanh mát con nước nhỏ ấy lại đổ ra bờ sông. Mệ đã mò cua bắt ốc ở đấy trong suốt thời gian ở cữ. Những buổi trưa nồng nàn hơi thở của ruộng, lũ chim chào mào thường sà xuống hai hàng chuối, í ới gọi nhau mổ những quả chuối chín muồi không có người đến hái. Thỉnh thoảng trong không gian tĩnh mịch, người ta nghe tiếng khóc của trẻ con từ những đám mây bay thấp là là, luôn biến đổi thành hình những con vật thời tiền sử.

Ở giữa một quả đồi biệt lập và cái không gian u ám đó, Xinh Hương vẫn cứ lớn lên trong khi thằng anh sinh đôi với nó cứ ngày một gầy còm chỉ còn da bọc xương. Có một điều khiến lão Kà Mạ lo sợ không dám cúng cái tên gọi cho con là: da thằng bé nhăn nheo xám và mọc lông như lông khỉ. Lão luôn quay mặt đi không dám nhìn thằng bé khi nó nhe răng khóc. Tiếng khóc lí chí lóe chóe như con khỉ con bị thương. Lão đổ dồn hết tình thương cho Xinh Hương. Con bé láu lỉnh có đôi mắt đen láy hoang dại, tóc xoăn tít và màu da đẹp như hoa phong lan. Con bé được mang họ của bà ngoại nó khi bà để lại cho nó một cái ché quý. Ché cũ kỹ đã bao đời nhưng với hàng hoa văn đen bóng mờ nhạt chứng tỏ nó đã năm bảy đời truyền lại. Trong nhà lão Kà Mạ có rất nhiều ché quý nhưng cái ché này quý hơn cả, là phần cho con gái. Tuy nhiên tận trong thâm tâm lão có một câu hỏi chưa vỡ lẽ ra. Đấy là lão tự hỏi lão: Ai là cha thật của hai đứa bé?

Mệ Lượm hàng ngày vẫn nuôi con như một phụ nữ dịu dàng. Cơn điên của Mệ không biết lý do nào đã lắng xuống, tỉnh táo, nên Mệ thường nở nụ cười tủm tỉm với con và với lão Kà Mạ nữa. Những lúc như thế lão thấy vợ thật đáng yêu và cái câu hỏi ngắc ngứ kia lại tan biến đi. Lão không dám hỏi. Và sẽ không bao giờ dám hé răng bởi lão đang thừa hưởng một thứ hạnh phúc mà lão không ngờ. Lão đương nhiên là cha đẻ của thằng bé Khỉ và Xinh Hương. Hương là lão đặt tên theo cái gốc của mẹ nó. Vì lão ngửi được cái mùi sữa thơm tho từ đôi môi đỏ mọng của con bé tỏa ra. Riêng Mệ Lượm rất thích thú cái tên Hương. Hình như nó gợi nhớ cái kí ức mù mờ trong lòng Mệ. Mệ là một hài nhi trôi dạt ở một bến sông, rồi người ta lượm Mệ lên nuôi nấng và bán Mệ trong một chuyến buôn dài ngày ở miền núi. Giờ đây Mệ thông thạo cả hai thứ tiếng, tiếng Kinh và tiếng dân tộc bản địa. Mệ Lượm đã sống hết cái quãng đời đẹp nhất của Mệ ở đây và trải qua nhiều sóng gió cuộc đời, Mệ nhận ra ở con người những cái ấm cúng và những cái phũ phàng. Mệ đang mở lòng ra giữa cái không gian yên ả, hít thở khí trời dịu mát, Mệ sung sướng nhận ra mình được làm mẹ qua một cơn điên...

Tiết trời chuyển dần sang thu, nhan sắc của Mệ Lượm tự nhiên đẹp lên một cách không tưởng. Mái tóc rũ chấm gót ngày xưa giờ đã được cắt ngắn ngang vai. Lão Kà Mạ thấy thế thì sung sướng lắm. Lão không nghĩ gì đến cái thân nhếch nhác của mình. Vì thế khi ngang qua hàng quần áo ở chợ Quận lão đã mua cho vợ hai bộ quần áo còn khét mùi thuốc tẩy. Năm ấy ở những buôn nghèo đói, người bản địa thường rủ nhau lên rừng đốt rẫy làm nương và săn bắn thú rừng. Những đụn khói đen cao ngất trời mang theo những tàn tro rắc xuống cánh đồng. Lão Kà Mạ đứng nhìn theo khói, nhớ lại một thời thanh niên bàn chân dậm khắp rừng rú Tây Nguyên. Lão bỗng thèm một tấm da lợn rừng, một miếng nai khô nướng với ống rượu cần trong ngày hội cồng chiêng... Bỗng hai vành tai lão động đậy, xa xa có tiếng reo hò của một cuộc đi săn. Tiếng reo ngày càng rõ. Và trước mắt lão đám thợ săn từ hướng núi Chưyangsin đổ về, trong tay họ là gậy gộc, cung tên và những mũi dao nhọn khoắm. Hai con hoẵng da lưng vàng cháy như nắng chiều đang lao nhanh về quả đồi của lão. Chân lão run lên, tay và miệng lão không cản được đám thợ săn. Lão ngất đi trong tiếng reo hò. Khi tỉnh dậy lão mơ hồ thấy mình bị lạc trong một cái hang tối đen. Lão quờ quạng tìm đường ra nhưng trước mặt là một dòng sông chảy xiết. Nước cuộn mình ào ào qua những hang đá rong rêu. Lão giật mình quay lại bởi tiếng khóc xé lòng của ai đó vang i ỉ trong hang hốc, trong vách đá âm ẩm hơi nước. Lão đi men theo tiếng khóc vì nghĩ rằng nơi đó có người ắt có lối ra. Con đường gồ ghề đá cuội càng ngày càng dẫn lên cao, những tia sáng xanh lục đã hé dần. Nhưng đôi mắt lão, đôi mắt già nua chợt như đứng tròng khi qua một vách ngăn lão thấy vợ lão đang ôm một cái xác chết khóc thảm thương. Máu lão sôi lên, lão nhảy chồm đến trước mặt vợ, và máu lão chợt nguội lạnh đến độ lão đổ gục xuống khi nhận ra cái xác chết là một con khỉ đột đã bị đâm xuyên qua ngực, máu đóng thành cục, chảy luênh loáng trên tay người đàn bà đẹp, thấm vào chiếc áo mới mua... Từ đấy lão Kà Mạ câm hẳn. Lão chỉ ú ớ đưa hai ngón tay lên ra hiệu. Có người giải thích rằng không phải một sự kiện làm cho lão Kà Mạ câm luôn mà tới hai sự kiện quá lớn khiến lão không chịu đựng nổi. Đó là con khỉ đột bị giết và đứa bé Khỉ cũng bị đám thợ săn bắt đi mất. Hễ nhớ tới hai sự việc ấy lão thường ôm một cái tượng mộ nhảy xuống sông trôi vào cửa hang đến trước nấm mộ của con khỉ đột khóc than. Thỉnh thoảng lão khọt khẹt thứ tiếng của loài khỉ u uất rồi đu người lên những rễ cây leo lên mặt đất.

Ở đời có những thứ ngược ngạo khó tin. Ví như người điên thì làm sao làm ra một cắc bạc. Ấy vậy mà lão Kà Mạ giàu lên nhờ cơn điên. Vốn làm nghề thầy mo lâu năm, càng điên lão càng cao tay ấn. Những con bệnh ngớ ngẩn đi long rong đến những con bệnh cởi hết quần áo không còn biết mắc cỡ là gì lão Kà Mạ vẫn chữa được. Nghe nói nấm mộ Khỉ Đột rất linh thiêng, bao con bệnh được lão dắt tới đó khấn vái đều đã khỏi. Còn Mệ Lượm bây giờ đã đứng ra cai quản cái cơ nghiệp của dòng họ: Mệ Lượm đã được Khỉ Đột truyền dạy một món thuốc lá rất công hiệu để bó tay chân trặc trẹo, té gãy. Vì vậy công việc làm ăn của hai vợ chồng Mệ ngày càng khấm khá.

Xinh Hương lớn lên rất xinh đẹp. Tuy là bông hoa của núi rừng nhưng Xinh Hương có một nét đẹp rất quý phái với giọng hát hay không ai bằng. Một ngày hoa pơlang nở đỏ cả triền sông Con Gái, Xinh Hương gặp một chàng họa sĩ. Mê mẩn trước sắc đẹp của Xinh Hương chàng họa sĩ đã ở lại buôn K'Ràng ba tháng trời để vẽ. Những bức tranh của chàng đều có bóng dáng của Xinh Hương. Nhất là bức tranh khỏa thân làm xôn xao làng trên xóm dưới. Những tiếng xì xào tiếc rẻ, những tiếng xì xầm chê trách và cả những giọng cười dè bỉu châm chọc vang lên khắp buôn làng. Già làng K'Bri đã bắt đền Mệ Lượm một con trâu hai gang sừng và tuyên bố đuổi Xinh Hương cùng với tay họa sĩ nọ ra khỏi buôn. Đó là cái ngày định mệnh của Xinh Hương, mới mười sáu tuổi đầu Xinh Hương đã lẻn trốn trong đêm ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn của mình cùng chàng họa sĩ ngây ngô...

Sau cái đêm ấy, K'Riều không còn được nghe tiếng hát của người yêu réo rắt bên sông. Chàng thường buồn bã đi thơ thẩn từ hang nghĩa địa đến bờ sông. Chàng bắt được trong gió cái mùi thơm từ mái tóc của Xinh Hương. Chàng cắm đầu chạy miết... lên đỉnh đồi Trọc, và những tiếng hú vang dội chạy qua bảy sắc cầu vồng tỏa đi rất xa. Rồi K'Riều lại về, thổi tiếp một đoạn khèn bầu tưởng nhớ Xinh Hương. Những điệu khèn xót nghẹn 1àm bối rối những sợi hoàng hôn đang phát ra luồng ánh sáng sung mãn nhất để rồi lịm tắt. K'Riều cho rằng thứ ánh sáng ma diệu ấy là ánh mắt của Xinh Hương âu yếm nhìn chàng. Vì thế thứ âm nhạc bồng bềnh phát ra từ chàng là một thứ âm nhạc trạng thái. Nó hư ảo như sương và đắm đuối như chiều. Nó nhớ như mưa rừng rỉ rích và nó hạnh phúc như nắm bắt được. Hàng ngày nó phủ dụ K'Riều đến gầy rạc. Chỉ còn có đôi mắt mờ như khói chợt sáng lên như đóm lửa khi có ai vô tình nhắc đến Xinh Hương. Lão Kà Mạ đã dắt K'Riều đến trước mộ Khỉ Đột vào một buổi chiều. Và sáng hôm sau K'Riều đã quyết chí ra đi... Bố K'Riều và già làng đến bắt tội Kà Mạ. Lão nổi giận điều âm binh, khiển tướng gỗ đánh lại Già làng. Nhưng Già làng xé áo để lộ một chuỗi răng cọp và cặp nanh heo rừng to bằng cổ tay em bé. Âm binh của Kà Mạ không làm gì được bèn rút lui. Đêm đó lão Kà Mạ bê một cái đầu heo cùng ché rượu quý đến mộ Khỉ Đột. Lão uống say và vật nhau với Khỉ Đột Không hiểu sao cái đầu của lão mắc trên cành cây xoài rừng, cái xác nằm chèo queo dưới đất. Từ đó mộ Khỉ Đột có hai nấm nằm song đôi với nhau, một nấm lớn một nấm nhỏ. Người ta đồn mộ Khỉ Đột không còn linh thiêng nữa nên việc làm ăn của Mệ Lượm cũng sa sút dần.

Đêm đêm cái đầu của lão Kà Mạ hiện về trên cây càng về khuya càng to dần như cái đầu của một ông khổng lồ nổi lên giữa đồi. Mệ Lượm sợ quá đã bỏ vào trong làng, Mệ không quên đem theo cái ché quý của Xinh Hương. Khi nhớ Xinh Hương Mệ khóc, nước mắt nhỏ vào miệng ché. Lâu ngày Mệ nghe cái ché biết nói. Mệ đã hỏi và cái ché linh thiêng trả lời rằng Xinh Hương còn sống, K'Riều còn sống... Lão Kà Mạ đã biến thành con cò ma đứng một chân thẫn thờ nhìn nước chảy.

Bẵng đi hai mươi năm, sau nhiều sự kiện trọng đại diễn ra. Tây Nguyên giờ đã có điện. Người nước ngoài vào làm ăn buôn bán du lịch tấp nập. Người ta thấy có đôi vợ chồng một người Pháp tìm đến Buôn K'Ràng. Người chồng cao lớn mặt mày râu tóc rậm đen. Đôi mắt tròn xoe đẹp như hai hòn bi ve. Người vợ trông rất quý phái và lãng mạn. Đôi mắt lại ẩn chứa một nỗi buồn không biên giới. Họ được bọn trẻ con giới thiệu với ông chủ tịch xã K'Riều...

Đêm đó trong cái nhà sàn nhỏ nhắn của cụ Mệ Lượm, dân ở Buôn K'Ràng từ bé đến lớn bu đông nghẹt. Tiếng khóc tiếng cười lẫn lộn vào nhau. Ông Chủ tịch K'Riều quệt nước mắt phân bua với bà con dân làng rằng bà Xinh Hương và ông Bé Khỉ đã trở về... Bà cụ Lượm tuy mừng mừng tủi tủi nhưng vẫn bán tín bán nghi. Bởi bà không muốn cái kết cuộc quá vui mừng mà cũng quá xót xa như thế. Bà khệ nệ bưng cái ché gia truyền ra giữa nhà đặt lên chiếc chiếu cói hoa văn. Bà chu miệng vào ché hỏi: "Có thật là Xinh Hương và thằng Bé Khỉ đã về không hở Yàng?". Những giọt nước mắt già nua lăn vào miệng ché. Mãi lâu cái ché lắc lư nhưng không tiếng trả lời. Bà Xinh Hương đưa tay đụng vào ché, cái ché bỗng vỡ ra sáu mảnh trước sự kinh ngạc của mọi người. Điều kinh ngạc hơn nữa: sáu viên đá lấp lánh ngũ sắc cùng lăn xuống cái đế ché bằng vàng...

Lâm Hà, cuối tháng 4 năm 2002
N.T.N
(171/05-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.