Minh họa: Bửu Chỉ
VAXIN BƯCỐP Trên bờ sông Ông thường xuất hiện ở đây lúc hoàng hôn, khi cái nóng ban ngày đã hết và không khí mát mẻ từ dòng sông bắt đầu tỏa ra hai bên bờ có những khe mọc đầy cây nhỏ. Chiều tối gió gần như lặng, mặt nước không còn gợn sóng là lúc buổi câu đêm bắt đầu. Những người câu cá đi xe hơi từ thành phố đến, vội vã cắm những chiếc cần câu ngắn của mình trên bãi bồi lắm đá và ngay lập tức trải ra một chiếc áo nào đó, sắp xếp chỗ ở cho một đêm tháng sáu ngắn ngủi. Pê-trô-vích từ một làng nhỏ ven sông đi theo cái khe mọc đầy cỏ ra bờ sông và đơn độc ngồi xuống mép bờ dốc đá nhô ra tận mặt nước. Ở đây nhiều người biết ông. Một vài người lớn tiếng suồng sã chào ông, hỏi ông những câu không nhất thiết phải trả lời. Phần nhiều ông im lặng, chìm đắm trong riêng tư và không muốn đến với mọi người, ưa thích ngồi một mình trên bờ dốc đá quen thuộc, nơi hoàn toàn không thuận tiện đối với người câu cá. Từ đây tầm nhìn được mở rộng đến hết bờ sông đã tắt nắng chiều, đến khúc sông rộng uốn cong có bãi nông ở giữa, đến nhịp cầu xe lửa uốn cao ở đằng xa, đến bờ dốc thoai thoải của bờ sông đối diện, nơi có rừng thông non đen thẫm trong đêm. Cao hơn một chút là hình thù đồ sộ của chiếc tàu cuốc đang ầm ầm phun khói. Cả một ngày dài nó nhả ra trên bong của chiếc xà lan những đống đất nhão nhoẹt chảy tứ tung, mà chiếc xà lan chẳng hề cản trở. Mấy phút sau, từ mố cầu bê tông chiếc xuồng máy “cadanca” màu xanh lơ nhanh nhẹn chạy ra, khéo léo vòng qua bãi nông. Kéo sóng đuôi xuồng suốt chiều rộng của dòng sông phẳng lặng, nó giảm ga sau bãi nông và bắt đầu rẽ vào bờ. Trên chiếc “cadanca” có hai người. Đó là I. Ura Barơtos, chàng trai quê ở làng bên, hiện làm việc ở thành phố và thường về câu ở chốn cũ cùng với người bạn tỉnh thành của anh là Côlômiets. Họ góp vốn mua được chiếc “Cadanca” có động cơ khỏe và hiện đại. Như thường lệ, chiều đó Côlômiets ngồi sau tay lái ở đuôi xuồng. Đó là một người vạm vỡ, vai đứng với đôi bàn tay to khỏe và cái nhìn nặng nề chắc chắn dưới chiếc mũ cát két thể thao có lưỡi trai dài kéo đến tận trán. Nhịp nhàng giảm vòng quay tay lái anh cho xuồng cập bờ, nơi nổi bật lên hình dáng đơn độc của Pêtrôvich. - Nào, bố già giúp cho một tay! - Sau khi tắt động cơ anh kêu Pêtrôvich. Trong không gian vắng lặng của dòng sông, giọng trầm của anh vang lên như một mệnh lệnh thân mật. - Cần gì! Để tôi làm cho. - Iura nói, nhổm dậy sau tấm kính chắn gió. Anh nhanh nhẹn văng cái thân hình rám nắng, gầy gò, dài ngoẵng qua tấm kính, nhẹ nhàng nhảy lên bãi. Cả hai cùng Pêtrôvich kéo mũi xuồng lên bờ. Sau đó, trong khi Côlômiets che động cơ và Iura, mặc quần thể thao xanh đậm xắn đến gối lôi ba lô, thuyền thúng, áo mưa từ xuồng ra thì ông già như một người xa lạ đứng riêng ra một phía và chăm chú nhìn sang bờ bên kia, tựa như nhìn một cái gì đó quan trọng khác thường. Ông im lặng một cách chăm chú, gần như lạnh lùng, và họ bận việc riêng cũng không chú ý đến ông. Họ biết rằng, bây giờ ông sẽ đứng như vậy cho đến lúc chạng vạng mà nhìn vào một chỗ ở trên bờ, nơi vệt đường cát từ rừng thông non chạy ra đứt quãng đột ngột giống như chui xuống nước, và nơi mà bây giờ hai chiếc thuyền thúng buộc vào khúc gỗ tròn đang lắc lư trên sóng do chiếc “Cadanca” gây ra. Ở đó có một bến đò rừng, nhưng hầu như chưa bao giờ thấy người, còn đò thì ngoài những người thợ rừng ra rất hiếm người dùng. Khi những đồ lề câu cá đã được kéo lên bờ, thì Côlômiets bận bịu ngay với những chiếc thúng, tranh thủ lúc trời còn chưa tối, còn Iura, co ro vì hơi lạnh của dòng sông, vội vã trùm lên người chiếc áo len chui màu xanh biển. - Hôm nay củi đóm thế nào, bác Pêtrôvich? Ông già chưa rời ngay cặp mắt mờ đục, đầy nước khỏi bờ sông đối diện. Những ngón tay co quắp vì phong thấp của bàn tay to bản quen lao động trầm ngâm lần theo hàng cúc nối vạt áo bị kéo căng ra của chiếc áo quân phục cổ đứng đã sờn. - Ít cành khô lắm. Người ta lượm hết rồi… Đấy, chỉ có một bó nhỏ thôi. Bó sát người trong chiếc áo len chui, Iura trèo qua những mỏm đá lên bờ dốc, đưa mắt đánh giá bó củi khô lép kẹp buộc bằng sợi dây cũ. - Vâng, ít thật đấy. - Tôi nghĩ thế này: không nên đốt từ tối, - ông già nói nhỏ trong khi chậm chạp, cố gắng trèo lên bờ dốc theo Iura. - Gần sáng đốt tốt hơn. Chập tối chỗ nào cũng có người, họ sẽ giúp … Còn gần sáng mà tắt thì ai giúp được?... Nặng nhọc lê gót, ông đi có cái bờ dốc được ba bước và ngồi xuống, sau khi chống gối và buông thõng hai tay có những ngón xòe ra như những rễ cây già. Ánh mắt đau khổ của ông, khi bao quát dòng sông dừng lại ở bờ bên kia theo thói quen. - Có thể giữ lửa đến gần sáng - Iura đồng ý - Nhưng đến đêm thì chắc hơn. Hay là cháu chạy đi lục tìm trong khe xem nhé? - Ban đêm tất nhiên là tốt hơn… Không thì bọn chúng làm sao mà nhận ra được. Ngày trước ở kia còn có cái xóm nhỏ. Còn bây giờ thì không. Và cái cầu kia thì mới… Trông lạ hẳn. - Chính thế đấy. - Nhỏ nhưng vẫn là lửa. Dù cháy âm ỉ cũng nhìn thấy. - Đúng như vậy. Thế cháu chạy đi kiếm thêm củi, tranh thủ lúc còn chưa tối nhé! - Iura kêu lên từ trên bờ dốc, và Côlômiets ở bên dưới đang móc mồi vào lưỡi câu, không hài lòng quay đầu lại: - Cậu hãy bỏ chuyện nhóm lửa đi! Trời còn chưa tối, bỏ đấy đã. Chuyện củi mới thật là cần. Ở kia có cành cây khô không? - Được rồi, tôi đi ngay đây… - Iura vội vã bò theo những tảng đá lên phía những bụi rậm của rừng cây mọc trong khe lớn.
Còn lại một mình trên bờ dốc, ông già cũng lặng im. Bộ mặt đầy lông xám của ông biểu lộ những nét ưu tư quen thuộc từ xa xưa. Ông im lặng chăm chú hồi lâu, máy móc lần tay trên vạt áo vẫy dầu mỡ, và cặp mắt đầy nước của ông xuyên suốt bóng hoàng hôn dầy đặc nhìn không chớp sang bờ bên kia. Côlômiets ở bên dưới, huơ cán khéo léo buông giây câu trên mặt nước tối phẳng như gương. Lấp lánh sợi dây cước, hòn chì khẽ làm gợn sóng và chìm nhanh xuống nước kéo theo mồi câu. - Bố già này! Ở dưới dốc Côlômiets nói bằng giọng sỗ sàng - Thôi đừng chờ nữa. Sẽ chẳng có ai đến với bố đâu! Bố hiểu không? Trên bờ dốc Pêtrôvich rùng mình nhẹ tựa như vì lạnh. Bàn tay ông để im trên ngực và cả cái thân hình gầy gò xương xẩu của ông co lại trong chiếc áo cổ đứng. Nhưng ánh mắt ông vẫn hướng sang bờ bên kia như cũ, nơi mà có lẽ ông không nhận thấy gì, và dường như ông không nghe thấy lời nói thiếu dịu dàng của Côlômiets. Lúc này Côlômiets với vẻ khéo léo quen thuộc ném xuống nước hai hay ba chiếc thúng, buộc vào đá những chiếc cần câu ngắn có gắn những chiếc chuông nhỏ. - Tất cả bọn họ đều hùa nhau xỏ mũi bố già rồi. Thế mà bố vẫn tin chúng sẽ về! Chiến tranh chấm dứt từ lâu rồi, bây giờ còn ai trở về nữa! Bố thử nghĩ xem! Trên sông tối đi trông thấy. Bóng dáng lờ mờ của Côlômiets động đậy bên mép nước. Anh không nói gì thêm với ông già nữa và luôn luôn bận rộn với cần câu. Pêtrôvich ngồi im một lát rồi trầm ngâm nói nhỏ: - Thế đấy, thằng nhỏ, Tôlích… Đau mắt. Trời tối không nhìn rõ. Thằng lớn nhìn rõ. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra với thằng lớn… - Chuyện gì xảy ra với thằng lớn thì cũng xảy ra với thằng nhỏ - Côlômiets thô bạo ngắt lời - Chiến tranh mà, nó có chừa ai ra đâu. Hơn nữa lại ở trong vòng vây… - Ừ! - Ông già đồng ý - Đúng là bị vây. Tôlích đau mắt mới ở nhà được một tuần thì thằng Alex chạy về nói: địch vây bốn phía rồi, mà lực lượng của ta lại ít. Thế là kéo nhau đi. Thằng nhỏ mới 16 tuổi. Bảo ở nhà không chịu. Lại còn dặn đốt đống lửa nhỏ báo hiệu khi bọn Đức rút đi… - Thật à? - Côlômiets ngạc nhiên, thậm chí nhổm người lên - Dặn là đốt lửa à!... Đó là thời gian nào?! - Ở Pêtrốpka. Đúng là ở Pêtrốpka, ừ… - Pêtrốpka? Thế đã bao nhiêu năm trôi qua rồi, bố có nhớ không? - Bao nhiêu năm à? Ông già tựa như rất ngạc nhiên, và dường như lần đầu tiên trong suốt buổi chiều rời mắt khỏi dải rừng mờ mờ của bờ sông phía trước. - Phải, bao nhiêu năm rồi bố không nhớ sao! Đã 25 năm qua rồi đấy, đầu óc bố mụ đi rồi! Nếp nhăn do nỗi đau sâu sắc trong lòng làm cho khuôn mặt già nua của Pêtrôvich méo xệch đi. Đôi môi ông run lên một vẻ hờn giận rất trẻ con, mắt chớp nhanh và ánh mắt dại hẳn đi. - Như thế… Sao lại như thế được? Toàn thân căng ra do sự cố gắng nhiều ở đó ở bên trong, có lẽ ông muốn, mà không thể nghĩ ra được một ý nghĩ biện minh nào đó với mình, và do sự căng thẳng quá sức chịu đựng ấy, ánh mắt của ông trở nên bất động, trống rỗng và rời khỏi bờ sông trước mặt. Mất hết sinh khí, trông ông u tối hơn và hoàn toàn chìm đắm trong riêng tư. Có lẽ, điều gì đó ở trong lòng đã làm ông tê liệt và câm lặng hồi lâu. - Con bảo bố thôi đi, đừng chờ nữa - bận rộn với dây câu, Côlômiets ở bên dưới khẳng định một cách thô bạo - Bọn trẻ không trở về đâu. Tiêu cả hai rồi. Xương cốt đã mục nát ở nơi nào đó rồi. Thế đấy! Ông già im lặng. Bận bịu với công việc của mình, Côlômiets cũng im nốt. Bóng đêm nhanh chóng trùm lên bờ bụi. Làn sương xám từ các khe ven sông bò ra, khắp con lạch sâu bốc lên những luồng hơi nhẹ như khói. Dòng sông mờ đục rất nhanh, mặt nước không còn ánh lấp lánh của ban ngày. Bóng đen của bờ sông phía trước đổ xuống, phủ bóng tối dày đặc lên mặt nước. Chiếc tàu cuốc đã ngừng kêu, không gian hoàn toàn yên tĩnh và thanh vắng. Và trong không khí yên vắng đó những chiếc chuông nhỏ của chiếc thúng vang lên thanh mảnh và dịu dàng như vẳng từ một nơi xa nào đó tới. Vất vả đặt đế ủng cao su trên đá, Côlômiets lao đến chiếc cần cắm sát mép nước và khéo léo lôi sợi dây câu lên. Anh không nhìn thấy trên bờ dốc Pêtrôvich khó nhọc đứng lên, lảo đảo và cong người lại lặng lẽ lê bước khỏi bờ sông. Có lẽ trong bóng tối ông già không gặp Iura. Anh xuất hiện ít phút sau trên bờ dốc, và ì ạch ném xuống chân một ôm củi khô: thật là to bên cạnh bó củi nhỏ của Pêtrôvich. - Ông già đâu? - Xem này, con cá to chưa? - Nghe tiếng bạn, Côlômiets khoái trá nói - Chắc phải đến nửa cân! - Nhưng Pêtrôvich đâu?... - Cảm thấy điều chẳng lành, Iura nhắc lại câu hỏi. - Pêtrôvich à? Có ai làm gì ông ấy đâu… Có lẽ đi rồi. Mình đã nói với ông già… - Sao? - Iura đứng như phỗng trên bờ dốc - Cậu nói cái gì? - Nói hết cả. Không thì mọi người cứ xỏ mũi ông cụ mãi. Cứ hùa theo nhau… - Cậu làm gì vậy! Cậu giết mất ông cụ rồi! - Thế mà là giết! Ông ấy sẽ sống! - Ôi thật là một đòn búa bổ! Ôi thật là một cú đấm thôi sơn! Mình đã nói với cậu rồi kia mà. Ở đây mọi người đều trân trọng, thương xót ông cụ. Còn cậu? - Thương xót gì! Phải cho ông cụ biết sự thật! - Sự thật sẽ giết ông cụ. Chính vì cả hai con của cụ đều hy sinh trong vòng vây. Mà trước đó chính cụ đã chở đò đưa họ sang bên kia. Và cứ chờ. - Chờ cái gì? - Làm thế nào được! Không chờ chẳng lẽ tốt hơn hay sao? Người khỏe mạnh còn không chịu được nữa là ông cụ. Cậu thật đáng trách! - Thôi, được rồi, được rồi… - Không, không được! Cậu phải biết ông cụ đi đâu! Ba lô của tôi đâu? Dưới bờ dốc bị bóng tối che lấp nghe rõ tiếng đá lở dưới bước chân, tiếng lẻng xẻng chói tai của dây xích kéo lê trên ván lát thuyền và một vài bước chân đi nhanh ra xa trong đêm. Khi những âm thanh đó chìm đi ở phía xa, dòng sông lại bị cái im vắng đặc quánh của ban đêm chế ngự. Hơi lấp lánh mặt nước đen, dòng sông trôi vào vô tận. Và dần dần ở những chỗ khác nhau trên đôi bờ chìm trong bóng tối, đây đó bắt đầu cháy lên những đống lửa của những người câu cá. Trong số đó đêm nay chỉ không cháy một đống lửa trên bờ dốc cạnh bến đò rừng, nơi mà cho đến sáng vẫn hoang vắng đìu hiu một vẻ khác thường. Đêm hôm sau nó vẫn không cháy. Và, có lẽ, nó không bao giờ cháy nữa. 10-9-1983 VŨ THAO dịch. (4/12-83) |
NAGUIB MAHFOUZ
Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.
Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.
Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.
FRANZ KAFKA
AMBROSE BIERCE
Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.
L. TOLSTOY
Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.
THOMAS VINT
L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.
JOSHUA BROWN (Mỹ)
“Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”
RAY BRADBURY
Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.
Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.
JORGE LUIS BORGES
Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.
CLAUDE FARRÈRE
Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.
HERMANN HESSE
(Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)
Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.
Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.
ALEKSANDAR HEMON
Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy.
Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.
LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.
LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.