Trăng huyền thoại

09:54 06/10/2010
HÀ KHÁNH LINHNgười lính canh chuyển dịch thế đứng của mình trong phạm vi một viên đá lát, khẽ ngửa mặt nhìn vầng trăng vừa ra khỏi đám mây đang dịu dàng tỏa ánh sáng xanh biếc xuống thanh đoản kiếm - chuôi nằm gọn trong lòng tay anh, mũi cắm xuống mặt đá.

Vũ điệu - tranh lụa của Phạm Đăng Trí

Đó đây thấp thoáng những người lính đứng bất động cạnh những chao đèn rực lên ở các vòm trụ chính. Và những bóng đèn dẫn đường tù mù trong những hộp gương vuông vức đỏ lòm trông xa như những hộp huyết đọng. Sương xuống mỗi lúc một nhiều hơn, báo hiệu bằng những ngọn lá sứ xanh ngắt và thô cứng ban ngày kia - giờ trở nên mềm mại ửng nước lấp lánh từng mảng mặt của chị Hằng. Cái nóng bức ban ngày như dồn nén lại, tích tụ hết trong những đám mây kia - để cho bầu trời bao la giờ nầy chỉ có chị Hằng đầy đặn xinh tươi mơn mởn e ấp hiện ra trong những khoang cành đại sứ, trắc bá diệp, tùng bách, ngọc lan hương… Ở đằng kia thì chị Hằng kênh kiệu treo giá ngọc trên lầu ngũ phụng… ở chỗ nọ chị lại trải mình trên nội cỏ như đùa dỡn với châu chấu dế mèn. Bỗng người lính canh nhận thấy có sự chuyển động từ con đường nhỏ phía trái nhà tả vu, làm cho ánh trăng ở đấy sóng sánh chao đảo và toan vỡ vụn. Anh mở to mắt nhìn kỹ, và nhận ra một bóng người gầy thó xương xẩu mong manh trong chiếc áo lụa bạch vừa tách con đường nhỏ di chuyển chậm chạp về phía anh. Đó là người thợ đá già nua đã dành trọn cuộc đời mình để xây dựng và tu sửa các công trình kiến trúc của triều đình. Đến nay ông được lưu giữ lại trong hoàng cung do ân sủng của đức chúa thượng để vừa tiếp tục làm nhiệm vụ tu sửa các công trình, vừa truyền nghề cho các thợ đá trẻ.

Càng đến gần chỗ anh, ông càng di chuyển chậm, đến nỗi, tưởng như cái bóng trắng mong manh ấy vẽ thành một vệt cố định trong không gian. Và, cuối cùng cái vật trắng ấy đã xích lại gần anh.

- Kính chào bác thợ. Mấy hôm nay đêm nào cháu cũng thấy bác ra đây. Chẳng hay khu vực nầy có phiến đá nào bị hư hỏng không ạ?

- Giỏi thay, chú tinh mắt đó. Đúng mấy hôm rày cũng như có một dạo, một tuần trăng nào đó, lão thường ghé qua đây thăm những phiến đá của mình. Chả là ngày xưa công trình nầy hoàn thành và khánh thành vào một tuần trăng. Đêm hôm đó, đức tiên đế truyền lệnh treo đèn kết hoa đợi lúc trăng lên đẹp nhất mới khánh thành. Còn hai tượng đá kia cũng bởi vì trăng nên mới đứng vì nhau hằng bao năm nay và sẽ còn đứng hoài hàng bao thế kỷ.

Người lính canh không giấu ngạc nhiên:

- Bác bảo hai tượng đá nào kia? Có phải hai phiến đá đặt cạnh nhau, một cao vút lên bề thế lẫm liệt, một nhỏ nhắn tựa kề bên tảng kia - trông như đôi bờ vai thon của cô thiếu nữ đẹp?

- Đúng. Người thợ già run giọng đáp - kia là chàng trẻ tuổi khỏe mạnh tài hoa, nọ là cô thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng. Chuyện rằng ngày xưa ở làng Phú Xuân có chàng trẻ tuổi làm nghề thợ đá. Cha chàng là một bậc tài danh về nghề đá đã sớm truyền cho chàng những ngón nghề tinh xảo trong kỹ thuật ghép đá và chạm trổ trên đá. Đến tuổi trưởng thành, chàng gặp và yêu cô gái dệt lụa tuyệt đẹp bên làng Kim Long. Đôi trẻ gặp gỡ và yêu nhau như trăng mới hé như đèn mới khêu. Đang lúc đôi bên cha mẹ đợi ngày lành tháng tốt để làm lễ cưới cho con, thì một hôm tình cờ đức tiên đế ngự giá qua, thấy được tấm nhan sắc của nàng liền cho vời vào cung.

Từ đó chàng trai đau đớn buồn khổ mỏi mòn. Ít lâu sau, chàng được cho gọi theo cha sung vào đội thợ đá của triều đình, cố nuôi một hy vọng mong manh rằng làm việc trong hoàng cung may ra có dịp tìm gặp người yêu.

Nhưng ngày lại ngày trôi qua, thu sang đông lại xuân về. Số phận đã định đoạt, chàng thợ đá khó có hy vọng được trộm ngắm dung nhan của quý phi. Nàng thì như bóng chim tăm cá, mà chàng thì chẳng dám hé lời cùng ai.

Một hôm, cha chàng dẫn về nhà một thầy thuốc cho hay rằng từ ngày đưa vào cung, nàng ốm đau võ vàng tàn tạ nhan sắc. Bao danh y được mời đến đều bó tay. Bệnh tình ngày càng nguy kịch. Bản thân vị thầy thuốc tài giỏi nầy cũng chỉ biết cắn cỏ kêu trời lang thang lên rừng xuống bể không biết kiếm thứ thuốc gì hơn nữa để cứu chữa cho thứ phi… Nghe đến đây chàng trai cúi sụp lạy tạ vị lương y và lạy tạ cha già. Từ đó, người thầy thuốc này trở thành manh mối của chàng. Dù rằng bản thân ông cũng chẳng được tự do gì trong khám chữa bệnh cho thứ phi. Ông chỉ tiếp xúc chẩn bệnh cho thứ phi qua một bàn tay của bà từ bên kia bức rèm chìa ra đặt trên đệm gấm - ở đó có sẵn hai thị nữ và mấy thị vệ xếp hàng hai để phục dịch và bảo vệ. Khó khăn làm vậy, nhưng với tấm lòng trời biển của lương y, ông đã tìm đủ mọi cách giúp nàng liên lạc với người yêu. Bệnh tình nàng thuyên giảm dần. Từ đó thỉnh thoảng nàng kêu mệt và cần một cuộc dạo chơi ngắm phong cảnh. Những dịp ấy chàng trai thường nép sẵn ở đấy chực để được nhìn thấy nàng.

Nhưng không phải lần nào những cuộc trộm ngắm dung nhan người thương cũng xảy ra dễ dàng thuận lợi. Một hôm, chàng trai được tin thứ phi sẽ theo tiên đế và Hoàng quí phi xa giá ngự ở Tĩnh Tâm hồ, chàng bố trí chỗ thuận lợi nhất để được nhìn thấy xe nàng đi qua. Nhưng đến phút chót, kế hoạch lại thay đổi: đức tiên đế ngự ở một địa điểm khác! Một lần theo hẹn, nàng sẽ đi dạo chơi với hai thị nữ tại một địa điểm trong Nội. Nhưng cuộc hẹn không thành!...

Một đêm, chàng trẻ tuổi phủ phục dưới chân cha tiết lộ kế hoạch chàng sẽ cùng với người yêu trốn đi đến nơi cùng trời cuối đất. Cha mẹ nàng đã chết từ một năm trước đó, nàng không còn ai thân thích để có thể chịu vạ lây - Hơn nữa, cuộc ra đi nầy lại được ngụy trang dưới một cái chết giả của nàng. Như vậy, về phía nàng nếu có bề nào chăng nữa cũng chẳng có gì để mà liên lụy về sau. Nhưng còn về phía chàng, nếu sự việc không trót lọt mà lại đổ vỡ ra thì ắt cha chàng sẽ là người đầu tiên hứng chịu mọi hậu quả.

Nghe đến đây, người cha không cầm được nước mắt, ông vui mừng chúc con đạt được những dự định táo bạo và đầy nguy hiểm; còn ông, ông sẵn sàng chịu rơi đầu dưới lưỡi gươm trừng phạt của tiên đế, để cho con mình được hưởng hạnh phúc.

Nhưng, rủi thay, chính cái đêm hẹn hò của đôi trai gái cũng là đêm đức tiên đế dừng chân bên trướng hoa của nàng.

Đó là lần đầu tiên nàng được vua đoái tưởng đến kể từ ngày vào cung.

Tại điểm hẹn, chàng trai đợi nàng mãi không thấy, không biết lý do vì sao. Hôm sau chàng lại ra chỗ hẹn, lại hôm sau và hôm sau nữa… Tin tức về nàng vẫn biền biệt.

Sau đó chàng bị cảm hàn, cảng nặng và chết.

Lại nói về đức tiên đế, sau đêm đầu tiên ân ái với thứ phi, cảm vì sắc, trọng vì nết, toan giữ nàng luôn bên mình, làm cho Hoàng quí phi cũng đâm ra sinh lòng ghen ghét.

Khi được tin người yêu chết, nàng cải trang làm một cô thôn nữ đến bên mộ chàng khóc than thảm thiết, khóc đến cạn nguồn nước mắt và gục chết tại đó luôn.

Người cha đau buồn thương tiếc hai con, bèn chọn đá để dựng lên biểu tượng kia, nhân lúc trang trí khuôn viên đại nội - chàng hóa đá vì nàng, và nàng quỳ xuống bên để tạ lỗi. Họ đã hòa nhập vào nhau thành một thể. Người cha đặt tượng ngay bên hồ Thái Dịch là một địa điểm mà lúc sinh thời chẳng bao giờ họ dám mơ ước được chọn làm nơi để được nhìn thấy nhau! Dưới bàn tay của người thợ đá lành nghề, và với tấm lòng của người cha, ước mơ này được thực hiện một cách âm thầm và táo bạo. Điều đó từ bấy đến nay chưa một ai được biết!

- Đã muộn lắm rồi, trời sắp sáng, tôi sắp đổi phiên gác. Xin cảm ơn bác đã kể cho nghe câu chuyện hay. Nhưng làm sao bí mật về tượng đá kia bác lại nắm được.

Ông lão vuốt đôi chòm râu bạc trắng như cước, đôi mắt mệt mỏi hấp háy, giọng run:

- Có gì lạ đâu, vì chính lão là cha đẻ của chàng trai bất hạnh kia. Thằng Thạch!... chuyện xảy ra còn mới tinh nguyên. Thế sự cũng đã lắm đổi đời trong mấy chục năm qua, riêng đá vẫn trơ với đất trời non nước.

Người lính hốt hoảng:

- Nhưng làm sao hôm nay bác lại nói những sự việc ấy ra đây? Bác không sợ sao?

Người lính nói và đảo đôi mắt một lượt quanh khu vực.

Bác thợ già vẻ ung dung:

- Ồ… lão đã già rồi! Với lại có vầng trăng kia làm chứng như đã từng làm chứng cho mối tình của con trai và con dâu lão. Lão thương con lão thì đâu có tội tình chi. Hỡi con trai yêu quí và con dâu thủy chung trinh bạch! Tình yêu của các con sẽ sống mãi trong những đôi lứa yêu nhau. Con cháu ngàn đời sau ai đã yêu đã một lần dẫn đến đây tình tự, tình yêu ấy sẽ mãi mãi bền chặt. Họ sẽ ngồi cạnh nhau ngắm trăng, ngắm cảnh lâu đài đền miếu hoàng thành và hương sen hương sứ lan vào, hòa tan trong tình yêu của họ… một lần nữa người lính canh hoảng hốt cắt ngang lời bác thợ:

- Ô kìa! Bác thợ! Bác thợ! Bác điên rồi chăng? Đây đâu phải chỗ đường sá chợ búa! Đây chốn uy nghiêm sao bác lại dám kể ra những điều nhởn nhơ dân dã ấy?

- Ha ha hả… ha ha hả… bác thợ cười dài đến sặc sụa.

Người lính canh nhấc kiếm lên và tay kia rút mã tấu ra khỏi đai lưng theo một thói quen phản ứng bảo vệ.

Ông lão vẫn cứ cười. Tiếng cười như thủy tinh vỡ dồn dập dội vào không gian lặng yên và mang màu trắng đục như sữa loãng.

- Kìa, bác điên rồi chăng?! Xin mời bác đi ngay cho!...

Bỗng một phát đạn nổ dòn từ xa cắt ngang lời người lính lẫn trong tiếng cười của bác thợ.

Những tiếng reo hò vọng lại mỗi lúc một gần với tiếng chân rầm rập tiến về phía Ngọ Môn.

- Đã muộn rồi con!... Bác thợ già ngửa mặt lên không nói - người lính không biết bác nói với con trai bác hay nói với anh - lịch sử không lặp lại mà thiên nhiên thì theo chu kỳ. Cứ ba mươi tám năm lại có một đêm rằm tháng bảy trăng sáng như thế này. Ngày xưa con trai ta gục bên cành đại sứ đêm mồng mười tháng bảy - Lão xin lặp lại: vòm sứ mặt hồ vầng trăng này từ nay không của riêng ai!...

Những cánh cổng Ngọ Môn rung lên theo nhịp trống dậy.

Trời vừa sáng.

Người lính canh không có ai đến đổi gác.

8-1983
H.K.L
(5/2-84)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.