Trăng đầu ngọn nước

10:11 09/10/2008
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

Bây giờ, chưa tròn một năm, xe lại bon bon giữa hai mái rừng keo và cao su vươn tán xanh ngút, tôi không khỏi xúc động bởi sự hồi sinh của những cánh rừng trên vùng đất từng căn cứ của tỉnh và khu V! Cũng chính sức hồi sinh mãnh liệt này, thúc giục tôi trở lại Đông, huyện Anh hùng Lực lượng Vũ trang và Anh hùng trong thời kỳ đổi mới của tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tôi về thôn Dỗi, xã Thượng Lộ, nơi toàn bà con dân tộc Cơ tu sinh sống chan hoà bên nhau. Cơ tu là nguồn sông đầu ngọn nước. Nơi đầu nguồn Tả Trạch chảy từ núi Mang và núi Atine về. Một chiều, tôi lội bộ ngược sông, đi hết đường thảm nhựa dọc dài thôn Dỗi, qua cột điện cuối cùng mạng lưới điện sông Đà trong vườn nhà anh Hồ Văn Hảo và vắt một góc “quăng dao” vượt đèo Tà Gùng. "Đèo Tà Gùng" tôi mạo muội tạm đặt, do đây là con đường đất dân sinh dài 7km, mới cày bạt taluy, vắt qua đỉnh Tà Gùng, cho bà con trong thôn có con đường đến vùng Cha Moong chăm sóc rừng cao su nhà mình. Đứng ở đỉnh Tà Gùng bên mép vực sâu, mùi đất mới vỡ ngai ngái, tôi giật mình nhìn bóng đèn xe của anh thanh niên xuyên thủng chiều chạng vạng, hối hả chạy về thôn, đường đèo chưa có rào chắn, nhỡ sẩy tay lái, xong đời! Sau này, tôi biết anh Thực ở trong thôn, người đầu tiên bị sẩy chân té xuống vực, sống sót nhờ sức vóc trẻ trai của mình. Và… ô kìa trăng đã lên đầu ngọn sông, ánh trăng dùng giằng tiễn biệt với bóng ngày le lói đang cố thẫm đen dần làng Hương Lộc và Thượng Lộ trải dọc dài hun hút hai bên dòng Tả Trạch, người Cơ tu gọi “ka rung Pa Rang”, chảy về Nam Đông. Tôi lại giật mình bởi vẻ đẹp phơi bày của ngày trăng treo đầu ngọn ka rung Pa Rang. Tôi liên tưởng đến đồi Vọng Cảnh ngoại ô Huế, nơi các vị vua triều Nguyễn làm chỗ ngoạn cảnh. Ai đến Vọng Cảnh trước năm giờ mùa này, sẽ thấy mặt trời mọc giữa dòng sông, toả sáng xuống mặt sông, khi những chiếc đò máy chạy qua làm vỡ gương sông, vỡ xoà muôn vạn ánh sao lung linh lấp lánh, cảnh sắc diễm lệ, uy nghi. Còn đây, bắt đầu vào đêm trăng lên, ka rung Pa Rang như dải gương thẫm xanh uốn lượn, chỗ đầy bóng đêm non vương vấn, chỗ dát vàng trăng hoang lộng, như sự phơi bày nửa kín nửa hở của nàng công chúa ngủ muội trong rừng! Núi, rừng, sông và làng mạc yên ả trong bao la ánh trăng thuần khiết! Đang đứng mê mải trong mênh mông trăng, tôi gặp cô Hồ Thị Bon, năm này lên lớp 12 trường THPT Nam Đông. Bon bảo, cô đi chăm sóc ha cao su một tuổi của mình, đi bộ từ rẫy cao su về đến nhà mất một tiếng rưỡi. Tôi trở lại thôn Dỗi, ghé nhà anh Hảo, mấy đứa nhỏ con anh đang xem Tây Du Ký từ chiếc ti vi cũ kỹ. Anh Hảo tâm sự: “Mình có 1ha5 keo và cao su. Vườn nhà 1500m2 mình trồng cây ăn quả và 19 gốc cau. Bão số 6 nhà mình tốc mái, vườn thiệt hại hơn 50%, thành ra còn vất vả lắm”. Đi giữa lòng thôn, ánh điện từ những căn nhà toả sáng hoà lẫn ánh trăng, thôn Dỗi chìm trong thanh bình êm ấm. Tôi nghe phía nhà Gươl líu ríu tiếng nói cười, hoá ra hai đội văn nghệ thôn Dỗi dợt lại các điệu múa Gia Giả, Duyên Dáng, Tung Tung để mai đón đoàn khách du lịch. Dưới ánh trăng, mắt các cô thanh nữ đựng đầy trăng. Ôi những đôi mắt con gái Cơ tu sôi lộng mê hồn! Là người lăn lộn, được thua, vấp váp trong trường tình, tôi nhận ra rằng, đa số con gái Cơ tu, thường có đôi mắt đẹp, hình như các cô đựng hết cả nét thâm nghiêm núi, mãnh liệt sông và mênh mông trăng rừng vào những đôi mắt trong của mình?

Sớm mai tôi được đánh thức bởi tiếng chuông ngân từ bên sông vẳng lại, lồm cồm ngồi dậy tôi tưởng mình đã ngủ ngon giấc trong ngôi làng Việt xưa cổ nào đó, Hoá ra thôn Dỗi. Mở cửa bước ra sân, tôi vấp một khoảnh sân bừng ánh trăng. Trăng vẫn đang thức, đang khoe bày, đang sóng soãi, đang nhuế nhoá cây cỏ. Tôi tự thẹn với trăng, vì mình ngủ thẳng giấc khi trăng vẫn kiên nhẫn chờ. Tôi cùng trăng đi vào thác Ka Dang. Thác Ka Dang huyền hoặc dưới ánh trăng luồn kẽ lá. Thác Ka Dang là điểm du lịch sinh thái thôn Dỗi. Từ đầu năm đến nay thu hút chín lượt người, chủ yếu người nước ngoài, thu nhập 9 triệu đồng. Và mặt trời lên, ánh trăng khẽ khàng tạm biệt ngày mới, trên bầu trời xanh, còn treo một đĩa gương trăng lạnh. Tôi ra cửa rừng, bất ngờ phát hiện mái dãy núi ôm ấp thôn Dỗi có hai màu, một xanh non của rừng keo tai tượng mới trồng và màu thẫm xanh của rừng nguyên sinh, giữa rừng trẻ và già như có một dòng suối xanh quyến luyến chở che nhau. Dòng sông xanh lá này chính là cốt cách cần cù, chịu thương chịu khó của bà con Cơ tu, xưa kia họ thích canh tác “phát, cốt, đốt, trỉa”, cư trú vùng đất cao “Pơ Phương dal”, nay họ quen định cư, biết trồng lúa nước, chăn nuôi, trồng cây gây rừng bảo vệ sinh thái làm du lịch để giảm bớt sự hung dữ của thiên nhiên khi nổi chứng!

Lại một đêm trăng tôi ngồi trò chuyện ông Trần Văn Cang bên cút rượu làng. Năm nay ông 68 tuổi, người thấp đậm, tay chân còn rắn chắc đen nhẻm. Bà con thôn Dỗi thường tổ chức lễ đâm trâu ngày mừng lúa mới vào ngày 28 tháng Chạp âm lịch. Ông bảo rằng, không phải ai tuổi cao cũng được mời đâm trâu. Trước khi làm lễ đâm trâu, các bô lão họp lại chọn mời người tuổi 60 trở lên, rồi sắm một mâm lễ vật rượu thịt đến mời ông. Ông Cang nhận lễ vật và bảo: “Cộng đồng tin tưởng mời tui, tui đâu dám chối”. Đến ngày đâm trâu, bà con cột trâu trước nhà Gươl, nhảy múa, ca hát, cúng Giàng suốt đêm, sáng mai ông Cang cũng nhảy múa ca hát rồi đâm đúng vào nách phải con trâu, đâm thế nào để khi trâu ngã vật ra chết, phải cách cột đúng một mét, đầu phải gối núi, đuôi hướng ra sông và không được đụng cột hoặc nằm dài ngoài ba mét tính từ chân cột, năm ấy người làng được khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt, khi có lễ đâm trâu các cụ lại mời. Ông Cang đã ba đời đâm trâu!

Đêm đã khuya, rượu đã nhạt, chào ông Cang tôi về. Trăng càng khuya, càng bịn rịn cánh rừng màu ghi cổ tích. Tôi lang thang với trăng và nhớ lại hôm mới đến thôn Dỗi, ở nhà anh Lê Văn Đạt. Đạt vừa tốt nghiệp trung học, hiện đang theo học lớp đối tượng Đảng. Ngôi nhà ngói, vách gỗ kiền rộng rinh bởi chỉ có Đạt và cô em gái học lớp 11cùng mẹ Đạt. Cha Đạt là ông Lê Văn Nưng mất cách đây ba tháng. Ở Đạt toát ra một vẻ đẹp mạnh mẽ của núi rừng. Tôi lại nghĩ đến chàng Vọi nhân vật của một nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn. Vọi vạm vỡ như Đạt nhưng ngây ngô hơn. Ở với gia đình Đạt ba đêm trăng, tôi mới biết năm 1995, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đến thôn Dỗi, đã ghé thăm gia đình Lê Văn Nưng.

Chia tay với mùa trăng đầu ngọn nước, bài hát “Trăng Nam Đông” của nhạc sĩ Minh Phương vừa sáng tác cứ ngân vang mãi trong lòng tôi theo nhịp bánh xe lăn về Huế Yêu mùa trăng Nam Đông…kiêng p ar rương Nam Đông”…
N.N.A

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...