Bức "La Joconde" hay còn gọi là nàng Monna Lisa
Suốt gần 60 năm qua, khởi nguồn từ Tạp chí Văn - thời kỳ chiến tranh miền Nam, qua thời hậu chiến và hôm nay, dịch giả Trần Thiện Đạo hầu như ít “vắng mặt” trên các kênh thông tin báo chí. Với “Cửa sổ nhìn ra văn chương thế giới” (NXB Thông tin, 2003), Văn nghệ với những nụ cười giòn” (NXB Hội nhà văn, 2004), Từ chủ nghĩa hiện sinh đến thuyết cấu trúc” (NXB Tri thức, 2008) đã là nên một chân dung đặc biệt về dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo 2. Trần Thiện Đạo có một vị trí đặc biệt trên tờ Văn miền Nam trước 75. Văn đã mang đến cho độc giả Việt Nam một cửa sổ văn chương nhìn ra thế giới. Các tên tuổi nổi tiếng như: Richard Wright, Hermann Hesse, Frank Kafka, Bertold Brecht, Marcel Proust, André Gide, Thomas Mann, Simone de Beauvoir, J.P. Sartre, Albert Camus, Alain Robbe Grillet…đã có mặt trên tờ Văn vào hồi đó. Và có thể nói, dịch giả Trần Thiện Đạo đóng vai trò chủ chốt trong việc chuyển dịch này. Bạn đọc Việt Nam đã làm quen với dịch giả Trần Thiện Đạo qua các bản dịch: Cậu hoàng con (Le petit prince) của Saint Exupéry, Giao cảm (Noces), Bề trái và bề mặt (L’envers et l’endroit), Sa đọa (La chute) của Albert Camus, Kín cửa (Huis Clos) của Jean Paul Sartre, Phấn đấu cho một nền Tiểu thuyết mới (Pour un nouveau roman) của Alain Robbe Grillet, Im lặng của biển cả (Le silence de la mer) của Jean Bruller Vercors, Zadig của Voltaire, Ao quỷ (La mare au diable) của George Sand... Khác với thế hệ trẻ sống lưu vong ở Pháp, Trần Thiện Đạo không mang bi kịch bị “bứt rễ” khỏi cội nguồn văn hóa dân tộc, hay như cách nói của Linda Lê: “Viết bằng một thứ ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ thì chẳng khác gì làm tình với một xác chết”. Thông thạo hai thứ tiếng Pháp - Việt, đặc biệt với quan niệm dịch thuật “phải tôn trọng văn phong của tác giả và đảm bảo độ chính xác”, Trần Thiện Đạo đã mang đến cho bạn đọc Việt Nam những bản dịch đáng tin cậy. 3. Ngoài các tác gia kinh điển nói trên, dịch giả Trần Thiện Đạo luôn theo dõi và cung cấp cho bạn đọc Việt Nam một số gương mặt tiêu biểu của văn chương đương đại Pháp như: Françoise Sagan, Michel Houellebecq, Marc Le-vy… Ngày 14-11-2010, Hội nhà văn Thừa Thiên Huế và Tạp chí Song Hương đã mời dịch giả Trần Thiện Đạo diễn thuyết về chủ đề: Văn hóa và văn chương Pháp đương đại. Với tư cách là một người sống và trải nghiệm qua nhiều biến cố của xã hội Paris, ông đã cung cấp nhiều thông tin thú vị về chủ nghĩa hiện sinh cũng như thuyết nữ quyền của Simone de Beauvoir. Ngoài ra, dịch giả còn đề cập đến thái độ của công chúng Pháp đối với văn chương Việt Nam. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một trong số nhiều bài phê bình của dịch giả Trần Thiện Đạo “ĐI TÌM HẬU DUỆ CỦA MONNA LISA” (Trần Huyền Sâm giới thiệu) Đi tìm hậu duệ của Monna Lisa Bức chân dung trưng bày ở viện Bảo tàng Louvre, Paris Q. 1, mà mọi người đều nghe nói tới qua tên gọi La Joconde, mà du khách có dịp đặt chân đến thủ đô nước Pháp đều một mực đòi xem cho bằng được, quả là một kiệt tác hội họa - vừa kì diệu vừa kì lạ. Kì diệu ở chỗ, ngoài mặt nghệ thuật điển hình cho tài năng của Leonardo da Vinci (1452-1519), bức họa còn mặc nhiên tượng trưng, tuy một cách phiến diện, cho sự nghiệp của tác giả vốn rất ư đa dạng. (*) Kì lạ ở chỗ, ngoài những chi tiết được biết (tương đối) chắc chắn về số phận của nó, nhân vật làm mẫu cho bức họa vẫn còn là một bí ẩn đối với nhiều người. Từ La Joconde… Thật tình mà nói thì cho tới nay, sau hơn nửa thiên niên kỷ, mọi hiểu biết chung quanh bức họa thảy đều bắt nguồn từ lời kể của nhà văn- kiến trúc sư GiorgioVasari (1511-1574), tác giả tập sách Đời nghệ sĩ (1550). Tập sách nhắc tới nhiều nghệ sĩ thuộc trường phái Firenze mà Pháp gọi là École florentine, thành phố Firenze này vốn là một công xưởng qui tụ hầu hết các nhà nặn tượng, điêu khắc và vẽ tranh cách tân kể từ thế kỉ XIII -khai mào thời kì gọi là Phục hưng cho tới thế kỉ XVI. Trong đó, nổi bật hơn hết là những Giotto di Bondone (1266-1337), Leonardo da Vinci, Michelangelo Buonarroti (1475-1564 - thường gọi theo Pháp là Michel-Ange... Theo nhận xét của các nhà viết sử nghệ thuật sau này, thì những chi tiết trình bày trong tập sách, nói chung, đều có thể tin được, dẫu rằng, trên thực tế, chẳng có tác phẩm tương tự nào khác để đối chiếu và kiểm chứng. Riêng về bức họa với nụ cười mím đầy bí ẩn của nhân vật trong tranh, tác giả tiết lộ: người phụ nữ do Leonardo da Vinci phóng cọ trong bức họa tên thật là Monna Lisa Gherardini. Năm 1495, vừa lên 16 đã lấy chồng, hay đúng hơn, cha mẹ gả cô cho người con nối dõi tông đường một gia đình thương gia buôn lụa, tên là Francesco di Bartolomeo del Giocondo, lớn hơn cô những 19 tuổi. Bức họa do chính ông chồng đặt hàng vào đầu năm 1503, lúc Monna Lisa đà 24 tuổi, nhưng chỉ được hoàn tất trên thớt gỗ bốn năm sau. Chắc vì vậy, vì quá thời hạn mà Leonardo da Vinci không giao hàng cho đương sự, giữ lại bức họa. Cho tới khi ông được vua François 1er (François đệ nhứt - 1494-1547) vời qua Pháp vào năm 1516, ngụ ở trang trại Clos-Lucé kề cận cung điện Amboise, bên bờ sông Loire. Nơi đây ông được cung cấp đầy đủ phương tiện để thử nghiệm phát minh khoa học của mình, cho đến ngày nhắm mắt ba năm sau. Tuy được mời với tư cách kỹ thuật gia, ông chẳng là nhà khoa học khét tiếng bấy giờ đó sao ? Ông cũng mang theo trong hành lí nhiều họa phẩm, đặc biệt có bức chân dung (sau này vin theo tên Giocondo, mới gọi là La Joconde). Điều lạ là, để tậu nó, nhà vua đã bỏ ra 4 000, vâng, bốn ngàn ducati (tiền vàng euro bấy giờ ở châu Âu), một số tiền khổng lồ, chưa từng thấy có một mạnh thường quân nào bấy giờ dám đài thọ cho nghệ nhân. Còn về người mẫu, thì chẳng có bao nhiêu chi tiết cụ thể đáng tin cậy cho phép chúng ta dựng lên một bức chân dung khác, bằng da bằng thịt thiết thực hơn. Chỉ biết rằng Monna Lisa đã trải qua một cuộc đời ẩn náu trong khuôn khổ gia đình, nhốt mình trong ngôi nhà nằm trên đường Della Stufa, và sinh hạ cho chồng ba con, hai trai một gái. Qua đời ngày 15 tháng 07/1542, hưởng thọ 63 tuổi, mai táng trong khuôn viên nữ tu viện Sant’Ortola. Theo gia phả bên nội còn giữ đến nay cho biết, thì dòng dõi nhà họ del Giocondo tuyệt chủng ngay từ cuối thế kỉ XVII. Thể như từ đó, ngoại trừ bức chân dung, Monna Lisa Gherardini không còn để lại chút máu mủ nào nữa trên đời: mọi người đều tin như vậy cho tới vừa đây... … tới công nương Strozzi
Nhờ đó, ông được biết rằng Maddelena thời ấy lấy chồng tên là Nicolo del Garbo, sanh một mống con trai. Đứa con trai sau này cưới cô Lizabetta de Mozzi làm vợ. Các tư liệu, mà hai gia tộc de Mozzi và del Garbo lưu trữ cho đến thế kỉ XIX, qua nhiều mối quan hệ giữa giới quí tộc với nhau, được chuyển cho nhà họ Bombicci-Pontelli, có nhắc tới bức chơn dung Monna Lisa treo cùng các bức chân dung đồng tộc. Chính nhờ bà bá tước Maria Luisa Bombicci-Pontelli hiện nay là người thừa kế, tập trung và lưu trữ tư liệu các gia tộc de Mozzi, del Garbo, del Giocondo và hoàng tộc Strozzi mà Dominico Savini thiết lập quan hệ huyết thống giữa Monna Lisa và hai công nương Strozzi. Ông quyết đoán: “Điều khiến tôi lấy làm sửng sốt và sảng khoái là ở chỗ các tư liệu de Mozzi và del Garbo có nói tới bức chân dung Monna Lisa bấy giờ còn nằm trong tay họ cho tới tận thế kỉ XIX. Nó chứng tỏ rằng dòng máu Monna Lisa vẫn còn chảy trong huyết quản của họ. Cứ theo lời bà bá tước Maria Luisa Bombicci-Pontelli, thì gia tộc de Mozzi là đầu mối giao hợp giữa hai gia tộc del Giocondo và quí tộc Strozzi, và dòng máu Monna Lisa chắc chắn hiện nay còn chảy trong huyết quản hai công nương nhà họ Strozzi”. Hai công nương này là Natalia, 29 tuổi, và Irina, 24 tuổi, tôn nữ của hoàng thân Gerolamo Strozzi. Cả hai đều độc thân, sống thanh bình trong bầu khí gia đình và ngoài đời. Cô em Irina tốt nghiệp khoa kinh tế đại học Boccino - Milano, rồi thực tập trong các văn phòng chánh phủ ở London (Anh quốc) và thủ tướng Cộng đồng châu Âu ở Bruxelles (Bỉ), biết chơi dương cầm một cách tài hoa và nói được bảy thứ tiếng. Còn cô chị Natalia thì chỉ nói được năm thứ tiếng, nhưng cũng tài hoa chẳng thua gì cô em khi đánh dương cầm, mà lại còn là diễn viên xuất sắc trong các bộ phim của Alberto Sordi (Italia) hay của Claude Lelouch (Pháp), và đó là không nói tới việc cô đang tập tành đeo đuổi nghiệp văn chương. Hai chị em thay phiên nhau quản lí và điều hành đồng ruộng nho bạt ngàn Cusano miền Toscano, là nơi sản xuất loại chianti (rượu chát đỏ) nổi tiếng từ một ngàn bốn trăm năm nay, mà những Dante Alighieri (1265-1321), Giovanni Boccacio (1313-1375) hay Michelangelo Buonarroti (nhắc tới trên) và nhiều nữa đã hết lời tán thưởng. Nụ cười bí ẩn Nụ cười mím (mím, với dấu sắc) của La Joconde Leonardo da Vinci phác họa hơn nửa thiên niên kỉ trước (xem bức họa), cho tới nay, vẫn còn là một bí ẩn chưa ai giải thích được một cách thỏa đáng. Liệu rồi năm trăm năm sau, vành môi rạng rỡ nở trên gương mặt hiện nay của hai hậu duệ (xem ảnh Natalia và Irina chụp trước tháp thủy tinh viện Bảo tàng Louvre đầu tháng 03/2007 này) có hé mở chút nào tấm màn che phủ đó chăng? Hãy đợi thời gian giải đáp. TRẦN THIỆN ĐẠO (262/12-10) --------------------------- (*) Xem: Triễn lãm Leonardo da Vinci - tranh vẽ và bản thảo, trong Trần Thiện Đạo, Văn nghệ - những nụ cười giòn (Nxb Hội Nhà văn - 2004), tr. 152-158. Ngoài ra, ông còn được xem và nhìn nhận là một nhà khoa học. |
NGUYỄN TÚ
Nhân đọc bài "Sứ mệnh kẻ sĩ trước nghĩa Cần Vương'' đăng trong Tạp chí Sông Hương số 4, tháng bảy - tám 92, tôi xin có một ý kiến nhỏ gọi là góp phần tìm hiểu.
PHAN NGỌC
Nói đến văn hóa ở thời đại kỹ thuật là nói đến biện pháp kinh doanh văn hóa, đổi mới văn hóa để làm đất nước giàu có, phát triển.
DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
Câu hỏi trên đây, từ trước đến nay đã làm bận tâm không ít những người hằng quan tâm đến tương lai tiếng Việt, và mối bận tâm ấy đã được vài ba tác giả đề cập trên báo.
HUỲNH THẠCH HÀ
Mau lẹ, hung hãn, đáng sợ, quyến rũ, có lẽ là những từ thường dùng khi nói về loài hổ. Hổ còn có nhiều tên gọi khác như cọp, ông Ba mươi, ông vằn, chúa sơn lâm…
VŨ NHƯ QUỲNH
Tác phong, đạo đức, nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sức cảm hóa, lan tỏa đến mọi tầng lớp nhân dân. Tầm nhìn chiến lược của Người vô cùng to lớn, đặc biệt đối với ngành Y tế trong giai đoạn hiện nay, là tuyến đầu đang trực tiếp chiến đấu với đại dịch Covid-19.
(Phỏng vấn nhà nghiên cứu phê bình văn học HOÀNG NGỌC HIẾN)
PHẠM PHÚ PHONG
Thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ, hay nói đúng hơn là cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Nghĩa là toàn bộ những yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật của một hiện tượng văn học.
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
Giai đoạn 1900 - 1945 là giai đoạn có “một thời đại mới trong thi ca” xuất hiện. Cùng với Sài Gòn và Hà Nội, xứ Huế ở thời điểm này trở thành một trong ba trung tâm báo chí, xuất bản của cả nước, nên không thể đứng ngoài hoặc không chịu tác động chi phối bởi những âm vang thời đại.
LÊ QUANG THÁI
Không hẳn nghĩa Cần Vương phát sinh từ khi kinh thành Huế thất thủ sau ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu (5-7-1885). Sở dĩ người ta thường quen gọi phong trào chống Pháp từ khi vua Hàm Nghi xuất bôn và xuống chiếu kêu gọi toàn dân chiến đấu chống thực dân xâm lược từ năm 1885 - 1888 là phong trào Cần Vương, bởi lẽ vua Hàm Nghi là linh hồn của cuộc kháng chiến trong thời cao điểm chống Pháp.
PHAN HỨA THỤY
Sau Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh là một tác giả lớn của xứ Đàng Trong vào thế kỷ XVIII, không những thế, Nguyễn Cư Trinh còn là một nhà hoạt động chính trị, quân sự có tài đã có những đóng góp cho lịch sử dân tộc.
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
(Giới thiệu, dịch thơ)
Miên Triện có tự là Quân Công, hiệu Ước Đình, là nhà thơ, nhà soạn tuồng tên tuổi của nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
PHẠM PHÚ PHONG
(Nhân đọc “Thơ vua & Suy ngẫm” của Nguyễn Phước Hải Trung)
Một bộ óc thông minh có giá trị hơn một bộ óc chứa đầy chữ
(Montaigne)
VÕ XUÂN TRANG
Dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ nên dạy cái gì? Câu hỏi này đặt ra tưởng như thừa lại hết sức cần thiết và cho đến nay các nhà ngôn ngữ học cũng như các nhà giáo dục học văn chưa trả lời được một cách rõ ràng và dứt khoát.
MAURICE BLANCHOT
Những Nhân ngư: dường như họ thực sự hát, nhưng theo một cách dang dở, cái cách mà chỉ cho một dấu hiệu về nơi những nguồn gốc thực sự và hạnh phúc thực sự của bài ca mở ra.
ANDREW HAAS
Khi virus corona mới xuất hiện, tôi bắt đầu dạy tác phẩm Phaedo của Plato [đối thoại nổi tiếng của ông bàn về sự bất tử của linh hồn - ND].
PHÙNG TẤN ĐÔNG
Nhà báo, học giả Lê Dư, còn có tên Lê Đăng Dư, Lê Kính (1884 - 1967)(1), hiệu Sở Cuồng (người Cuồng nước Sở), sinh quán tại làng Nông Sơn (nay thuộc xã Điện Thọ) huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
TRẦN ĐÌNH HƯỢU
Chúng ta đều đã biết sự thay đổi đột ngột trong cách đánh giá Tự Lực văn đoàn.
YẾN THANH
Dân tộc học (Ethnologie) là một địa hạt kén người nghiên cứu, bởi bước chân vào đó nếu muốn có kết quả đáng tin cậy, đôi khi phải đánh đổi cả đời người, cả nghiệp bút, chứ không thể “ăn xổi ở thì” với những dự án ngắn hạn.