Trần Hữu Lục “tôi là hạt bụi quê hương”

11:12 17/12/2008
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

Lần đầu tiên tôi có được trong tay tập thơ “Vạn Xuân”- một tác giả đồng hương mà trước đó thi thoảng tôi bắt gặp thơ anh in trên các báo, tạp chí và rải rác trong các tuyển tập thơ. Thơ Trần Hữu Lục có cái riêng của kẻ tha phương luôn nhớ về cố quận, dẫu có chút thành đạt nơi Sài thành anh vẫn nhớ quê hương, như trong “Vô thường” vẫn có những câu đọc da diết làm sao:
“Xa quê đau đáu mẹ tóc sương
Câu hát vành nôi giờ vời vợi
Hoa bắp cồn còn lay giấc ngủ
Sao con mãi thao thiết trông tìm?...”
Sinh ra từ Huế và cũng ra đi từ đó nhưng không quên mảnh đất gắn chặt tình người. Trần Hữu Lục trong “Huế” có hai câu: “Quê xưa giờ mất dấu/ Đau đáu tình quê!” man mác một chút Đường thi mà cụ Tản Đà đã dịch “Hoàng Hạc lâu” rất thần: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Quê hương của Trần Hữu Lục đã “mất dấu” vì tác giả bỏ lại đằng sau để:
“Người tha hương khát ngụm nước sông Hương
Kẻ ở lại mà như người xa xứ
Ít có cơ hội góp phần với quê mẹ
Khi lòng người chật kín mưu toan
Chữ nghĩa có thể nào là phù phiếm?
Buồn thương người xa quê!”

Còn nhiều câu thơ hay, đọc lên dễ nhớ và càng đọc càng cảm tình với tác giả: “Một nửa tôi ơi là khoảng khắc/ Đường đời như tia chớp sáng thôi/ Chùa xưa, lá rừng và cỏ dại.../ Xin cùng tôi tĩnh lặng buồn vui” (Tĩnh lặng tôi). Có những câu anh như tự trách mình bằng tình quê thật dạt dào, sâu đậm như anh không thể dứt ra vậy: “Tuổi thơ như hạt phù sa cuối đất/ Lần lữa Tết này, nửa đời ly khách/ Gặp nhau lấy chuyện quê làm duyên” (Tết rơi đầu mùa). Hay “Nếu tình yêu là xứ sở/ Xa vắng này hoá quê hương” một chút từa tựa Chế Lan Viên: “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”. Nỗi lòng anh có thể hiểu để cùng chia sẻ rằng: “Đường qua lại biên giới trăm nẻo/ Quê hương chỉ có một lối về”; lại nữa: “Chợt bồi hồi...thiếu quê hương”. Rõ nhất trong bài “Hạt bụi” mà anh đã trích 4 câu hay nhất trong bài để làm bìa 4 ở tập sách:
“...Gió vẫn bay về đồng lúa
Sao tôi còn lạc giữa rừng?
Mới đó chẳng còn ai nhớ
Tôi là hạt bụi quê hương”.

Người gần gũi với Trần Hữu Lục là những văn nghệ sĩ cùng quê với anh nên hiểu con người anh và hiểu cả những sáng tạo của anh. Trong đó, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nhận định: “Trong Lục cho đến nay vẫn luôn luân lưu một dòng thi ca, rất nhẹ nhàng mà nồng ấm, ngọt ngào mà tinh tế, lay động với những kỉ niệm mang mang về tình yêu, quê nhà. Đó không phải là đề tài dành riêng cho Lục, nhưng thật sự Lục là kẻ ít sống gần với quê...Trong thơ Trần Hữu Lục có bóng dáng của một dòng sông xanh rất xanh năm mười sáu tuổi, một thuở trăng tròn thời cũ trên những đồi thông”.

Lại một người đồng hương- nhà văn Sâm Thương khắc họa về anh: “(...) Không hiểu sao, mỗi khi đọc thơ của Trần Hữu Lục, tôi lại liên tưởng Huế là chốn quê nhà và Lục là một trong những đứa con hoang của Huế đang lạc loài đâu đó ở phương xa. Nhưng Lục không giống đứa con hoang trong Thánh kinh của Thiên Chúa giáo, anh không có ý định trở về vĩnh viễn vì cuộc ra đi thất bại, cũng không giống đứa con hoang trong kinh Pháp hoa của Phật giáo, vì không phải anh không biết rằng mình đã về, sự trở về đó không thể gọi là sự trở về, nó nói lên sự giải thoát của con người. Ngược lại, anh ý thức được sự trở về của mình, nếu khi có dịp trở về nơi chốn cũ. Anh trở về để nhìn lại, để trăn trở với nỗi nhớ của chính mình, rồi sẽ tiếp tục ra đi mà không chút hối hận.
Mặc cho những bề bộn, nghiệt ngã của cõi đời, thơ của Lục vẫn luôn là nỗi hoài nhớ, niềm khát khao tìm kiếm thời gian đã mất, anh luôn đối diện với bức tường của hư vô, muốn chạm tới cái thế giới siêu hình bằng chính cảm xúc và ngôn ngữ nhẹ nhàng, nhưng không đơn điệu”.

Đó là lời nhận định trong suốt quá trình sáng tạo thơ qua 2 tập trước kia của anh ‘Lời của hoa hồng”, 1997 và “Thu phương xa”, 2003. “Vạn Xuân’, NXB Trẻ, 2006 là tập thơ thứ 3, trong đó có 8 bài thơ được phổ nhạc như “Vạn Xuân” (nhạc Kiều Tấn); “Sài Gòn thu” (nhạc Phú Quang); “Hoa hồng dại” (nhạc Nguyễn Văn Hiên); “Ngày về” (Hương Giang, nhạc Vũ Hoàng); “Xuân hồng” (nhạc Tôn Thất Lan); “Trắng trong” (“Dốc phố em về”, nhạc Nguyễn Phú Yên); “Ngày về” (“Đà Lạt ngày về”, nhạc Phú Quang) và “Lời của biển” (nhạc Quỳnh Hợp) đã giàu chất thơ nên lưu tình chất nhạc. Trần Hữu Lục tiếp tục hành trình vận động đổi mới nhưng vẫn không thoát khỏi khuôn khổ cái cũ nên những bài thơ như: “Vòm cây đại lộ; Đoá sen hồng; Hà Nội” chưa nổi bật xét trong tổng thể toàn tập “Vạn Xuân” nhưng cũng là tập thơ đáng được đọc.
            N.T

(nguồn: TCSH số 210 - 08 - 2006)

 



----------------
(*) Hội Nhà văn TP.HCM- NXB Trẻ, 6/2006.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.