NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
Bác Hồ hỏi chuyện đồng chí Trần Hoài Quang (phải)
Cuộc đời cách mạng
Ông Trần Hoài Quang sinh năm 1922 tại Triệu Phong, Quảng Trị. Từ nhỏ, ông được gia đình đưa vào học ở Huế, tốt nghiệp trường thương mại và sớm giác ngộ cách mạng. Ông sôi nổi tham gia phong trào yêu nước của sinh viên – học sinh Huế trong thời kỳ cuối thập kỷ 30, vào Đảng năm 1939 trong nhà lao Ninh Thuận. Năm 1940 ông về Huế làm báo (viết cho trang văn chương của báo Đông Pháp), phụ trách Thanh niên phản đế Huế. Cuối năm 1940 ông bị bắt giam ở Thừa Phủ vì tội tuyên truyền cộng sản với mức án bốn năm rưỡi. Năm 1941, ông bị quân Pháp đày đi Buôn Mê Thuột. Trong tù, ông đã hai lần bị tăng án vì tội làm đại biểu tranh đấu và tuyên truyền binh lính. Tháng 6/1945, ra tù, ông về hoạt động tại tỉnh Quảng Trị, huấn luyện dân quân du kích chuẩn bị cướp chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông lần lượt làm Trung đoàn phó kiêm Chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật, Uỷ viên Ban Chính trị khu C (Bắc phần Trung bộ), Hiệu trưởng Trường Quân chính Lào - Việt.
Kháng chiến bùng nổ năm 1946, ông được cử làm Chủ tịch Uỷ ban Hành chính kháng chiến huyện Hương Trà. Năm 1947, ông bị bắt giam vào lao Thừa Phủ lần thứ hai. Năm 1949 ông được cử chỉ huy miền tây Nam Campuchia (gồm 4 tỉnh Tàk eo, Kam pốt, Koom pông chuang, Koom pông span). Tháng 2/1949, ông vượt ngục về làm Phó ban Tuyên huấn tỉnh Thừa Thiên, tháng 5/1949 làm Tham mưu phó Mặt trận Bình Trị Thiên. Tháng 2/1950, ông được cử làm phái viên quân sự của Bộ Quốc phòng sang hoạt động ở Campuchia, sau đó được cử làm Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Quân sự Campuchia kiêm Chánh Văn phòng Ban Ngoại vụ Nam Bộ (7/1950), Tham mưu trưởng, Trưởng phòng Tham chính Campuchia. Năm 1954, ông ra Bắc công tác ở phòng Lào Miên Trung ương rồi Chính uỷ Trung đoàn 664. Năm 1959, ông làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ Tuyên Quang rồi Bí thư Tỉnh uỷ Tuyên Quang (1960-1976). Từ 1976- 1977, ông làm Bí thư Tỉnh uỷ Hà Tuyên và sau đó về hưu. Ông mất tháng 3/1999 tại Tuyên Quang.
Ông là một cán bộ cách mạng lão thành, suốt đời hy sinh cho sự nghiệp độc lập và tự do của tổ quốc. Sinh thời, ông là người bạn đồng chí với Tổng Bí thư Lê Duẩn, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, nhà thơ Tố Hữu, nhà cách mạng lão thành Võ Chí Công… Thượng tướng Đoàn Khuê từng nói: “Đây là người anh cả cộng sản của tôi, người đưa tôi vào Đảng”…
![]() |
Lưu niệm cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại khu Biệt thự Hồ Tây 11/12/1998 |
Ngoài hoạt động cách mạng, ông để lại một số dấu ấn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Người dân Tuyên Quang còn kể lại chuyện ông mở đường trên núi. Nà Hang của những năm 50 của thế kỷ trước còn sơ khai lắm. Ngay từ Phòong Mạ đến Ngòi Nẻ (Nà Hang) cách nhau có chục cây số nhưng ai cũng sợ đi qua vì vắt, muỗi nhiều như nêm. Mong ước của nhân dân bao đời là có con đường lớn nối huyện lỵ Chiêm Hoá với huyện lỵ Nà Hang. Năm 1959, Phó Bí thư Tỉnh uỷ Trần Hoài Quang đi công tác Nà Hang, ông hỏi Huyện uỷ Nà Hang bức xúc gì nhất. Huyện nêu nhu cầu của dân: đường giao thông. Yêu cầu chính đáng đó của dân khiến ông suy nghĩ. Năm 1961, ông làm Bí thư Tỉnh uỷ. Không quên mơ ước thiết tha của dân năm nào. Ông cho thành lập Tiểu đoàn Thanh niên xung kích của tỉnh để xúc tiến việc mở đường. Chính ông nổ phát súng mở đường và bổ nhát cuốc đầu tiên năm 1962, mở đầu cho việc làm đường qua núi ở Tuyên Quang. Năm 1965, tuyến đường lớn Nà Hang - Bản Lãm dài 24km được khai thông, ô tô đến tận Bản Lãm, người dân đổ ra xem ô tô đông như hội…
Câu thơ trăng sáng
Ông viết văn, làm thơ, viết báo từ khi còn trẻ. Những năm 1938 - 1939 ông đã đăng thơ, luận chiến trên báo chí công khai ở Huế về sứ mạng của văn nghệ, của nhà văn. Ông còn dịch một số truyện của Pháp. Nhưng thuỷ chung nhất với ông vẫn là thơ. Khi còn sống, ông xuất bản 2 tập thơ vào các năm 1991, 1998. Sau khi ông mất, bạn bè ông ở Hội Văn nghệ Tuyên Quang đứng ra xuất bản cho ông tập thơ thứ ba có tên “Ngoài vườn trăng giãi”(2008). Thơ của ông, ngoài cái say lý tưởng, lẽ sống cao đẹp, còn là cái say của tình đời, tình quê hương, tình người gần gũi và ấm áp. Gần như đi đâu ông cũng có thơ nói hộ lòng mình.
Từ năm 1938, ông đã vẽ nên một bức tranh quê bằng thơ:
“Làng tôi động cát cao cao
Xanh xanh ruộng lúa, nao nao giọng hò
Làng tôi bờ dậu quanh co
Cây đa lũng thấp, đàn cò bến quen…”
(Bức tranh quê hương - 1938)
Và những ngày tham gia cách mạng đầu tiên:
“Thuyền ơi hãy lướt gió đông
Chim ơi hướng phía trời hồng mà bay”
(Trầm tư - 1938)
Thơ viết ở ngục tù:
“Tôi đứng tỳ tay vào cửa sổ
Trong tù lặng ngắm cảnh mưa ngâu
Lòng tôi là một niềm mưa gió
Vắng bóng mặt trời những bấy lâu”
(Mưa - 1941)
Thơ viết khi đi đày:
“Ai người đã đi trước
Cỏ xanh xa một màu
Ta dù kẻ đến sau
Vẫn can tràng cất bước”
(Đi đày Buôn Mê Thuột - 1941)
Thơ khi vượt ngục:
“Ở ngoài kia đang hăm hở đấu tranh
Anh có một ý nghĩ tung ra ngoài: cuộc sống
…Anh đã thoát người anh cho cách mạng”
(Vượt ngục - 2/1949)
Thơ cho đoàn quân ra trận:
“Đoàn quân từ độ xông lên trước
Xe pháo nối nhau lướt chiến hào
Tôi có người em đi trong đó
Muôn lòng như một, sáng như sao”
(Thu - 1972)
Thơ ngày về thăm quê nội:
“Người cha, chết năm trước
Người mẹ, mấy năm sau
Hai em, cỏ bạc màu
Dưới làn bom bạo ngược…
Thương thân già côi cút
Nhà cửa xác xơ rơ
Ngước trông lên bàn thờ
Khói hương còn nghi ngút”
(Khói hương - 1982)
Và khi tâm sự với bạn già:
“Bạn hỏi bây giờ có khá không
Thì mình vẫn ở cạnh dòng sông
Gió đưa thuyền chạy miền xuôi ngược
Mùa lũ mênh mông, nước ngập đồng
Cái vườn rau ấy, từ xưa ấy
Rặng chuối đa đoan vẫn trĩu buồng
Bò đã bán đi, thay lợn nái
Bí bầu làm bạn với tre bương…”
(Với bạn 1984)
Một Bí thư Tỉnh uỷ về hưu, vui với nương vườn trong cảnh nghèo. Thật sự là chuyện khá lạ. Nhưng đáng phục nhân cách thi sỹ này hơn nữa, là khi nhà nước đề nghị cấp nhà cho ông thì ông từ chối, bởi rằng ông đã có nhà rồi.
Nhân cách nhà thơ và nhà cách mạng Trần Hoài Quang là như thế đó.
N.T
(SDB13/06-14)
ĐỖ TẤN ĐẠT
(Nhân đọc tập thơ “Nhật ký gió cuốn” - Nxb. Văn học 2018 của tác giả Phạm Tấn Dũng)
VƯƠNG TRỌNG
Với người làm thơ và bạn đọc Việt Nam, hầu như ai cũng biết thơ Đường luật phát sinh từ đời Đường Trung Quốc cách nay trên một thiên niên kỷ, nhưng không nhiều người biết thơ Tứ tuyệt cũng khởi sinh từ đời nhà Đường.
PHẠM PHÚ PHONG
Trong bài thơ mở đầu cho tập thơ đầu tiên Cái lùng tung (2007) của Trần Văn Hội, anh có viết rằng: “có những điều anh chưa nói với em/ đó là sự lặng im trong thơ anh” (Đó là sự lặng im), không chỉ là dự cảm, là sự ướm thử mà là định mệnh, là thi mệnh thể hiện quan niệm nghệ thuật của tác giả, trở thành tuyên ngôn cho cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật, xuyên suốt cuộc đời và thơ ca Trần Văn Hội.
(Một đôi chỗ cần lưu ý)
CHU TRỌNG HUYẾN
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc Phấn hoa, tiểu thuyết của Phạm Ngọc Túy, Nxb. Thuận Hóa, 2019)
Trước khi Thơ Mới ra đời, Huế là một trung tâm có nhiều tác giả Thơ Đường nổi tiếng. Sau khi Thơ Mới ra đời và phát triển mạnh mẽ Thơ Đường vẫn thịnh hành cho đến ngày nay.
ĐỖ LAI THÚY
Khi mọi thần thoại gãy đổ, thơ chính là nơi thần linh trú ngụ. (Saint John Perse) |
Tôi không tiến đi đâu cả, Tôi là hiện tại. (Pablo Picasso) |
TRẦN THÙY MAI
(Nghĩ về tập nhạc mới của Trần Ngọc Tuấn)
HỒ THẾ HÀ
Gần nửa thế kỷ liên tục sáng tạo, Nguyễn Quang Hà đã tự tạo cho mình chứng chỉ nghệ thuật vững chắc ở thể loại văn xuôi và đạt được những giải thưởng danh giá do các Tổ chức văn học uy tín trao tặng:
UÔNG TRIỀU
Trước kia tôi mê F.Dostoevsky và đánh giá ông là một nhân vật vĩ đại. Tất nhiên bây giờ ông vẫn là một nhà văn vĩ đại bất chấp cảm giác của tôi thế nào.
Việc đọc sách đang bị văn hóa nghe nhìn thu hẹp trước sự phát triển không ngừng của công nghệ, nhất là đối với thế hệ trẻ trước cơn bão của mạng xã hội.
PHẠM PHÚ PHONG
Rừng sâu có trước các dân tộc,
sa mạc đến sau con người
(F.R.de Chateaubriand)
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Trong năm học đầu tiên sau ngày hòa bình (30/4/1975), tất cả các thầy, cô giáo ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn đều chưa được dạy học trở lại. Những giáo sư tên tuổi và những giảng viên trẻ cùng ngồi chung trong giảng đường tập trung học chính trị. Một số khác đã đi ra nước ngoài trong những ngày biến động trước đó.
VŨ THÀNH SƠN
Thơ Vũ Lập Nhật cho chúng ta một cảm giác mất thăng bằng, một thế đứng chông chênh nguy hiểm, như thể khi bước vào thế giới thơ của Vũ Lập Nhật là chúng ta đang bước vào một thế giới khác, một thế giới song song không biên giới; ở đó, trật tự, định luật vạn vật hấp dẫn, sự sáng suốt của lý tính như bị thách thức.
THÚY HẰNG
Xoài xanh ở xứ sương mù” là tập tản văn dày 340 trang do nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cuối năm 2018.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Chân trời là giới hạn của tầm mắt, dẫn đến ảo tượng về sự giao nối giữa trời và đất. Do vậy, chân trời vừa hữu hạn, vừa vô hạn.
ĐÔNG HÀ
Tôi yêu thơ Nguyễn Trọng Tạo từ những năm còn là sinh viên. Tuổi trẻ nhiều háo hức, về tình yêu, về non xanh và tơ nõn. Nhưng khi bắt gặp những câu thơ chảy ngược trong tập Đồng dao cho người lớn, tôi lại choáng váng.
NGÔ MINH
Có một ngày nhạt miệng, thèm đi. Đi mãi mới hay phố cũng thiếu người. Có một ngày nằm dài nghe hát. Rồi ngủ quên trong nỗi buồn nhớ mông lung.
NGỌC THẢO NGUYÊN
Buổi sinh hoạt được đặt tên là Tọa đàm bàn tròn về thơ. Đây là buổi sinh hoạt mang tính chất thử nghiệm của Phân hội văn học (lại một cách nói rào đón nữa chăng?)