Ký ức hiện lên trên hình con vật tinh xảo, ngộ nghĩnh, trên từng lớp giấy nhiễu, vải hay giấy bóng kính của chiếc đèn Trung thu tưởng chừng đã bị lãng quên. Nói như nhà nghiên cứu Trịnh Bách: “Bắt đầu từ ấy mà khơi lên, mà thắp sáng con đường tìm về nét đẹp truyền thống. Cũng là trả lại phong vị cho mùa trăng tháng Tám vốn hàm chứa bao giá trị văn hóa dân tộc”.
Trung Thu Hà Nội 1932 - Ảnh tư liệu Bảo tàng Quai Branly, Pháp (do nhà nghiên cứu Trịnh Bách cung cấp)
Lần theo dấu cũ
Ngày xưa rằm Trung thu được coi là Tết Thiếu nhi, là cái Tết lớn thứ hai trong năm của người Việt. Ngay từ rằm tháng Bảy, người người, nhà nhà đã rục rịch chuẩn bị đón Tết, nhất là những làng làm đèn đã bắt tay khẩn trương làm đủ loại đồ chơi cho trẻ em. Trong đó đèn lồng hình con thú là loại đồ chơi đặc biệt hơn cả.
![]() |
Đèn con thỏ cổ truyền - Ảnh tư liệu do nhà nghiên cứu Trịnh Bách cung cấp |
“Bao nhiêu người trong chúng ta còn biết ngày xưa người Việt có các trò chơi Trung thu truyền thống? Bao nhiêu em nhỏ được biết đến không khí vui tươi và thiêng liêng của Tết Thiếu nhi xưa?”. Câu hỏi ấy đeo đẳng tâm trí nhà nghiên cứu Trịnh Bách từ cách đây nhiều năm, khi từ nước ngoài trở về. Ông chứng kiến việc trẻ em cứ đến rằm tháng Tám lại chơi thứ đồ chơi Tây, Tàu, mà không hề biết đến những chiếc đèn lồng cổ truyền độc đáo của nước mình. Thế là ông tự nhủ “mình phải làm cái gì đó...”.
Gần chục năm qua, ông Trịnh Bách tìm đến xóm làm đèn lồng Trung thu Phú Bình ở quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh, cố gắng tìm nghệ nhân có tay nghề để giúp họ làm lại các loại lồng đèn Trung thu truyền thống đã thất truyền của nước mình. Ngay cả các loại lồng đèn Việt Nam xưa, vốn dùng để trang trí nhà cửa, làng xóm trong các lễ hội thông thường như đèn củ tỏi và đèn củ ấu thì nay cũng ít người còn biết. Hay đèn kéo quân của đêm trừ tịch (giao thừa) Tết Nguyên đán thời cổ, người xưa tin rằng lúc giao thừa khi các thần thổ trạch về trời, thì ma quỷ tràn ra hoành hành khắp nơi. Người ta treo đèn kéo quân giữa cửa trước để ma quỷ không dám vào. Ấy thế, giờ đây loại đèn này lại thường dùng để chơi Trung thu.
Theo nhà nghiên cứu Trịnh Bách, lồng đèn hình con thú có nguồn gốc từ thời Đường, Trung Quốc. Khởi thủy chúng được làm với hình con cá chép. Tương truyền hồi đó có con cá chép thành tinh cứ đến đêm rằm tháng Tám thì vào kinh đô Tràng An bắt người ăn thịt. Triều đình nghĩ ra một chước, dạy cho người dân làm đèn hình con cá chép bằng khung tre phất giấy hay lụa. Đến đêm rằm tháng Tám đốt nến bên trong đem treo trước cửa nhà hay mang đi rước ngoài đường. Con tinh cá nghĩ những chỗ đó đã có đồng bọn làm việc cho nên không đến nữa. Tục lệ đó dần lan rộng ra khắp nước, sang cả nước ta. Nhưng rồi phong tục ấy mất đi ở Trung Quốc từ lâu.
Riêng Việt Nam vẫn giữ được nếp cũ, vẫn duy trì làm đèn lồng Trung thu cho trẻ em. Lúc đầu là những đèn có hình dạng các con vật sống trên cung trăng, liên quan đến rằm tháng Tám, như thỏ ngọc, thiềm thừ (cóc 3 chân). Về sau, người ta tạo thêm đèn hình con vật khác như gà, bướm, lợn, ngựa bay… Những chiếc đèn này được tạo dáng, dán giấy, vải và sơn vẽ kỳ công, sống động.
“Tết Trung thu ngày xưa xem ra chỉ thua Tết Nguyên đán một chút thôi. Bao nhiêu năm qua, vì lý do đời sống xã hội thay đổi làm cho truyền thống mai một. Nhưng trong tâm khảm của nhiều người, không khí Trung thu vẫn còn. Trong phần nào tiếc nuối, nhìn lại những chiếc lồng đèn cổ truyền, có lẽ người ta sẽ biết được ít nhiều về không khí Trung thu mà người Việt bao đời đã trải qua, đắm mình trong đó”, nhà nghiên cứu Trịnh Bách nói.
Một bầu không khí khác
“Có bà cụ gốc làng Báo Đáp bao lâu nay không còn làm đèn Trung thu nữa. Đến lúc vừa nhìn thấy chiếc đèn lồng con thỏ cổ truyền được làm lại đúng cách cũ thì ôm lấy, không giấu nổi xúc động. Đó là cảm xúc ngậm ngùi, là cảm giác được an ủi”. Ấn tượng về bà cụ gốc làng Báo Đáp dẫn câu chuyện của nhà nghiên cứu Trịnh Bách về lại thời điểm mấy năm trước, khi ông đi tìm làng nghề, nghệ nhân làm đèn Trung thu cổ truyền. Ngày xưa, ở Bắc Bộ có nhiều nơi làm đèn Trung thu cho trẻ em, nhưng nổi tiếng nhất có làng Báo Đáp, ở Nam Trực, Nam Định. Theo dòng chảy biến động của văn hóa, làng nghề dần bị đình chỉ. Năm 1954, nhiều người làng Báo Đáp di cư vào Nam, lập ra xóm Phú Bình ở Sài Gòn để tiếp tục làm đèn.
Ngày trước, nghệ nhân làm lồng đèn làng Báo Đáp đa phần dán đèn Trung thu bằng giấy nhiễu, có khi bằng vải, về sau dán bằng giấy bóng kính. Khi vào Sài Gòn, họ theo phong cách và thị hiếu của các nhà buôn Chợ Lớn mà đổi sang hoàn toàn dán đèn lồng bằng giấy bóng kính. Theo phong cách xưa, nhiều lồng đèn còn được gắn thêm lông thỏ và mặt mài kim kính. Nhưng truyền thống cứ thế mai một, đèn Trung thu cổ truyền mất dần theo thời gian, nghề làm đèn cũng thất truyền hơn nửa thế kỷ ở ngoài bắc và mấy thập kỷ ở trong nam. Mặc dù đến dịp, người ta vẫn làm đèn Trung thu, nhưng chỉ với hình thức rất đơn giản.
Chắt nhặt những gì còn được lưu sâu trong ký ức, 2 - 3 năm gần đây, nhà nghiên cứu Trịnh Bách đã hỗ trợ một gia đình làm đèn ở xóm Phú Bình, Tân Phú, TP Hồ Chí Minh làm lại đèn Trung thu cổ truyền. Giữa vô vàn thứ đồ chơi hiện đại, ngoại nhập, thử hỏi những chiếc đèn lồng cổ truyền kia làm thế nào có thể cạnh tranh, thu hút con trẻ? Ông Trịnh Bách tin rằng nét đẹp hấp dẫn, tinh tế của nền văn hóa Việt, trong trường hợp này là đồ chơi Trung thu cổ truyền của dân tộc sẽ làm được điều đó. “Sau bao nhiêu năm vắng bóng, bây giờ thì hình ảnh chiếc đèn Trung thu truyền thống đã được nhiều người biết đến hơn, tìm hiểu nhiều hơn. Có ở Sài Gòn những ngày này mới thấy xóm làm đèn rôm rả đến thế nào, số người đặt mua nhiều đến ra sao từ nam ra bắc… Có lẽ, nên bắt đầu từ ấy mà khơi lên, thắp sáng con đường tìm về nét đẹp truyền thống”.
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!