Tổ quốc trong trái tim người mẹ Cà Tu

16:03 17/09/2008
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

Căn nhà tình nghĩa 3 gian lợp ngói được Nhà nước cấp kinh phí, đồng bào trong xã đóng góp ngày công làm tặng mẹ, nổi hẳn giữa thung lũng nhà sàn lợp lá của đồng bào Cà Tu. Trong nhà bàn ghế, tủ giường khá đầy đủ, tươm tất. Trên bàn thờ, tấm ảnh chân dung mẹ già nua với đôi mắt hiền từ, trầm mặc ấy đã nhắc tôi nhớ lại những lần trước được gặp và hầu chuyện cùng mẹ. Nhớ ngày còn sống, mẹ vẫn thường sinh hoạt và gắn bó với ngôi nhà sàn cũ kỹ của mẹ (liền kề với ngôi nhà ngói mới này). Bởi ngày xưa, trong buổi cơ hàn, giặc giã, ngôi nhà ấy mẹ đã từng nuôi dưỡng, chăm sóc những đứa con thân yêu của mình qua từng bữa rau cháo, măng rừng, vắt cạn từng giọt sữa ngọt ngào nuôi chúng lớn khôn mà đi đánh giặc. Tôi vẫn còn nhớ rõ những lần trước, mỗi khi biết chúng tôi đến thăm là mẹ rời bếp lửa trong nhà sàn. Mẹ bảo: “Ớ! Các con lên nhà trên đi, cái mắt của A Mế nó không còn cho A Mế được nhìn thấy các con nữa mà”.

Đúng, mắt của mẹ không còn nhìn thấy được gì nữa, mẹ chỉ biết quờ quạng lần mò từng bậc thang nhà. Đã hơn 20 năm nay mỗi lần lên xuống như vậy đều phải có người dìu đỡ mẹ. Phải chăng mắt của mẹ bị mù lòa hoàn toàn không chỉ là do quy luật lão hóa của tuổi già, mà đó còn là nỗi đau luôn đi cùng năm tháng của một người Mẹ Việt Nam anh hùng đã từng khóc khô dòng lệ, cháy ruột đợi chờ, đớn đau quặn thắt sau mỗi lần nhận tin con mình không bao giờ còn trở về nữa.
Hôm ấy, bên chén trà ấm áp, mẹ kể cho chúng tôi nghe về những đứa con thân yêu của mình. Mẹ còn nhớ hết từng đứa, từng đứa một, khi chúng còn tấm bé, khi mẹ cõng lên nương, khi chúng ngủ trên lưng qua lời ru của mẹ. Mẹ bảo: “Hễ đứa nào lớn lên là chúng lại nằng nặc đòi đi, không được đi bộ đội thì vào du kích. Không được cầm súng thì tải đạn, gùi lương, đi miết vào rừng. Cả bản đều như vậy, cả xã đều như vậy, tất cả đồng bào thiểu số mình hồi ấy đều như vậy..!”.

Thế là 6 đứa con (cả con đẻ và con nuôi) của mẹ lần lượt ra đi theo Cách mạng, chiến đấu rồi hy sinh. Những nỗi đau của mẹ đã quá đủ với thời gian, ấp ủ trong lồng ngực, rực đỏ thành hòn than đốt cháy tâm can mẹ, hút cạn hết nước mắt của mẹ. Mỗi đứa con của mẹ được mẹ nâng niu, nuôi dưỡng, chở che, được mẹ ví như một cành cây. Đứa lớn là cành lớn, đứa nhỏ là cành nhỏ, mỗi đứa hy sinh “cái cây mẹ” như bị chặt đứt một cành, dần dần mẹ như thân cây gầy, già cỗi chơ vơ chống đỡ với nắng núi mưa ngàn. Chỉ còn một đứa còn sống nhưng lại bị bệnh thần kinh, chẳng đỡ đần được gì, lại chỉ khổ thêm phần gánh nặng cho mẹ.
Làm việc với chúng tôi, bộ phận chính sách của xã Hương Lâm đã cung cấp đầy đủ tài liệu lưu giữ về những trường hợp hy sinh của các liệt sỹ con mẹ. Năm 1962, mẹ phải chịu cái tin đau đớn đầu tiên khi anh Quỳnh Aprí, du kích xã Hương Sơn (nay là xã Hương Lâm) hy sinh trong một trận chống càn với địch. Năm 1964 anh Hồ A Hưm, du kích xã hy sinh khi bị địch truy kích, mẹ đã tận mắt chứng kiến những viên đạn quân thù xé nát lồng ngực con mình. Năm 1965, chị Kăn Pa Ra, con gái của mẹ cũng là du kích xã lại hy sinh trên đường vào rừng tiếp tế lương thực cho bộ đội. Năm 1967, anh Hồ A Ơnh là bộ đội, tiếp tục hy sinh nữa. Đã vậy, số phận nghiệt ngã vẫn chưa buông tha mẹ. Liền sau đó, năm 1968 anh Hồ Sĩ Bàng là bộ đội lại hy sinh. Năm 1972 anh Hồ A Yết tiếp tục hy sinh nữa.

Vậy là, chỉ vẻn vẹn hơn 10 năm, mẹ đã mất đi 06 người con. Nỗi đau như thác lũ, như sấm sét trút xuống đầu mẹ. Trong tận cùng nỗi đau thắt ruột, xé lòng ấy, Mẹ Kăn Gương thẫn thờ như người vô hồn, tưởng chừng không thể vượt qua được những cú xốc nghiệt ngã,
Nhưng không! Trong tận cùng nỗi đau quặn thắt ấy, mẹ đã gượng dậy được, vì mẹ vẫn mang trọn trong trái tim mình một niềm tin mãnh liệt, một niềm tin tuyệt đối vào Đảng, vào Cách mạng, vào Bác Hồ kính yêu. Mẹ luôn thầm mong đến ngày lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc sẽ tung bay trên quê hương mình, nên mẹ phải sống để chờ đến ngày đất nước được giải phóng...
Thế rồi, ngày đó đã đến, quê hương mẹ và cả đất nước được hoàn toàn độc lập. Trong niềm vui chung của cả dân tộc, của đồng bào dân bản, nỗi đau trong mẹ đã nguôi ngoai phần nào. Mẹ tìm được nguồn an ủi, sẻ chia từ sự quan tâm của Đảng, của Nhà nước, của địa phương và tình thương yêu giúp đỡ của đồng bào, chiến sỹ. Mẹ hiểu, chiến tranh là khổ đau chung, mất mát chung, đâu chỉ riêng mẹ. Mẹ vượt lên những nỗi đau thương, mất mát đó để chống đỡ với nghèo khó, bệnh tật. Mẹ nói với mọi người: “Chừ hết cái bom, cái đạn là AMế thấy nhẹ được cái bụng rồi mà!”.

Cũng may mẹ vẫn còn có bố Quỳnh Gương (chồng mẹ), người đã trọn đời gánh vác, sẻ chia cùng mẹ những nỗi mất mát, khổ đau; cùng mẹ nương tựa vào nhau để chống đỡ với chiến tranh tàn khốc. Tôi thầm mong muốn nếu một mai đây, khi Đảng và Nhà nước ta có chủ trương xét tặng danh hiệu “Người bố Việt Nam anh hùng” thì bố Quỳnh Gương sẽ là người được truy tặng danh hiệu cao quí đó.
Mẹ Kăn Gương lại ngồi im lặng, đôi mắt ngấn lệ thẳm sâu. Một lúc sau mẹ lại bảo: “Cái mắt của AMế nó không cho AMế được nhìn thấy các con, nhưng AMế mừng lắm vì các con cũng giống như những A Kay của AMế mà, AMế cảm ơn các con nhiều nhiều đó!...”
Nghe mẹ nói vậy, trong tôi dâng lên một niềm xúc cảm lạ kỳ và tự thấy mình như người có lỗi với mẹ vì đã trót khơi động lên những vết thương, những nỗi đau se sắt trong lòng mẹ.

Mẹ lại ngồi bất động qua những phút giây suy tư, trầm ngâm, xót xa nghĩ về những A Kay đã mất. Hồi lâu mẹ đứng dậy lần mò đi tới bức tường nhà nơi có treo ảnh Bác Hồ và những tấm bằng “Tổ quốc ghi công” cùng những tấm Huân chương, Huy chương của các con mẹ. Cuối cùng tay mẹ dừng lại khá lâu trên tấm bằng danh hiệu cao quý “Bà Mẹ Việt Anh Hùng” do Chủ tịch nước CHXHCN Việt phong tặng mẹ. Đó là sự ghi nhận công ơn trời biển của mẹ, là nguồn động viên lớn lao nhất đối với mẹ. Bởi từ khi được phong tặng danh hiệu “Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng” thì mẹ được nhiều người biết đến, nên ngoài chính sách chăm sóc, ưu đãi của Đảng và Nhà nước, mẹ đã được đón nhận thêm sự quan tâm từ nhiều phía của các cấp, các ngành, từ tỉnh, huyện và xã. Mẹ được cơ quan Thương mại huyện A Lưới nhận phụng dưỡng suốt đời. Từ đó, đời sống vật chất và tinh thần của gia đình mẹ mới hết khó khăn, vất vả.

Sống trong căn nhà “Nghĩa Đảng - Tình Dân”, và được các đoàn khách từ nhiều nơi thỉnh thoảng ghé thăm, tặng quà, lại có các chiến sĩ Đồn Biên phòng 633 thường xuyên lui tới động viên, chăm sóc... mẹ Kăn Gương vơi bớt nỗi buồn. Mẹ thường nói với chúng tôi những điều mộc mạc nhưng rất đỗi chân thành bằng những lời biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, của đồng bào, chiến sĩ đã dành cho mẹ và gia đình... Tôi còn nhớ lúc ấy, ở cái tuổi ngoài 90, lời nói của mẹ thường bị đứt quãng vì cảm động và mệt nhọc. Những giọt nước mắt xót xa thỉnh thoảng lại lăn dài, trên đôi gò má gầy gò, ốm yếu của mẹ.
Mẹ Kăn Gương ơi! Cả đất nước này phải biết ơn mẹ, vì mẹ đã hiến dâng 6 đứa con và cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc; Biết ơn những đứa con thân yêu của mẹ, của đồng bào Cà Tu kiên cường, bất khuất, đã ngã xuống giữa rừng Trường Sơn, bên đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại. Người anh ngã xuống, người em vẫn tiếp bước lên đường để “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. A Mế Kăn Gương ơi! Sự dâng hiến, hy sinh cao cả mà âm thầm của mẹ như cây rừng lặng lẽ hút sữa từ lòng đất dâng mật cho đời. AMế Kăn Gương cùng với bao người AMế, AKay khác của đồng bào các dân tộc ít người (Cà Tu, Pa Cô, Tà Ôi, Pa Hy...) trên vùng cao Biên giới này là vậy, họ luôn khiêm tốn, lặng lẽ như trăm ngàn khe suối không tên, đêm ngày róc rách, góp từng mạch nước, tạo thành những con sông bao la tưới mát cho mọi quê nhà.

Mẹ Kăn Gương - “Bà mẹ Việt Anh Hùng” ấy của đồng bào Cà Tu, là hiện thân một phần cội nguồn Tổ quốc. Cùng với bao người mẹ Việt anh hùng khác, mẹ đã góp phần không nhỏ cho bản ca bất tận về chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt . Mẹ Kăn Gương là biểu tượng chân thực về những người mẹ anh hùng trong đồng bào các dân tộc ở vùng cao biên giới tỉnh Thừa Thiên Huế, mẹ cũng là hình ảnh sống động, gần gũi và kính trọng nhất đối với những người lính chúng tôi.
              M.T

(nguồn: TCSH số 226 - 12 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Kỷ niêm ngày thương binh - liệt sỹ 27.7)

  • CHÍ CÔNGNghe xã ấy chuẩn bị gặt chiêm, làm được nghĩa vụ lương thực, thuế nông nghiệp và hè thu 1983 sớm hơn các nơi khác, tôi cùng hai cán bộ cơ quan đi về đấy rút kinh nghiệm để có kế hoạch tuyên truyền sát thực tế.

  • VĨNH QUYỀNXe vượt qua một khúc quanh, màu lúa xanh rờn đột ngột hiện ra phía trước. Chúng tôi vừa để lại đằng sau thành phố Huế cổ kính. Hai ngày qua, chúng tôi đã đi thăm và làm việc ở đấy.

  • ĐẶNG THỊ HẠNH                 Tùy bútVề cái thị xã cỏn con mà chúng tôi đến vào cuối đông năm ấy, ký ức tôi giữ lại còn bị giới hạn hơn nữa, do bao giờ không gian về một nơi nào đó ta giữ lại từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, cuối cùng cứ hẹp dần lại để chỉ còn rút lại ở không gian ta quen thuộc nhất.

  • PHAN THỊ THU QUỲCách đây trên 80 năm, trên con đường làng ấy, đến tết, dưới hai bụi tre Là Ngà mát mẻ người ta thường đánh bài chòi. Một công tử họ Phan ở làng Đốc Sơ làm trong triều nội với chức Hàn lâm viện Biên tu, và một thiếu nữ họ Bùi con nhà giàu làng Đốc Bưu, ngồi bên chòi thành hai phe. Hễ công tử đi một con bài thì thiếu nữ trúng và ngược lại.

  • HÀ THÀNHChúng tôi chuẩn bị hành trang theo đoàn công tác đặc biệt của tỉnh Thừa Thiên Huế, sang làm việc với tỉnh Xa-ra-van nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Để chuẩn bị đón nhận các hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở chiến trường Lào về nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)Vào một sáng đầu thu, tôi tìm đến khu tập thể Trung Tự, Hà Nội, nơi nhà văn Bùi Hiển đang sống cùng con cháu. Ông là một trong số những người đầu tiên tham gia thành lập Phân hội Văn nghệ Thừa Thiên tháng 10 năm 1950, tổ chức tiền thân của Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế hiện nay.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Hồi ký(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)

  • VŨ ĐÌNH HÒE       Trích đoạn trong cuốn Hồi ký "Pháp quyền - Nhân nghĩa Hồ Chí Minh".

  • THÁI KIM LAN       Viết tặng Lisa Eder

  • PHẠM NGỌC CẢNH                        Bút ký Sau này tôi mới biết cụ Đỗ Tất Lợi. Dành dụm mãi tiền sinh hoạt phí của một anh lính, tôi ra cửa hàng sách quốc văn. Mua một cuốn Nam dược... về đặt đầu giường như cái gối. Gối lên những kỷ niệm về cây, về lá để nhớ thương bà. Những trang viết về cây ngải cứu, cây thạch xương bồ, cây bồ công anh hay như những bài thơ. Những trang viết về củ nghệ, củ gừng, quả mướp đắng, trái me chua phúc dày như kinh Phật.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOKim Mai thân nhớ,Ngày giáp Tết, tôi về miền thơ ấu. Cây đa cổ thụ, ngôi miếu rêu phong vẫn đứng giữa đồng quê như đợi như chờ từ vạn kỷ.

  • NGUYỄN THẾ TƯỜNG                               Bút ký Dải đất Việt khi chạy dài vào tới miền Trung thì xép lại trong một khúc eo. Một bên là dãy Trường Sơn hùng vĩ che chắn. Một bên là biển rộng sóng vỗ bờ.

  • NINH GIANG THU CÚC                         Ghi chép Thuở còn bé tí tẹo tôi thường được người lớn kể cho nghe chuyện một anh chồng Cọp đi rước Cô mụ (nữ hộ sinh) cho chị vợ đang đau bụng đẻ.

  • TRÍ NHÂN       Truyện kýNăm 1954, đa số cán bộ, đảng viên ở chiến trường miền đều tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ. Chỉ có một số ít cán bộ, đảng viên cốt cán được bố trí ở lại trong vùng tạm chiếm để xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức lực lượng đề phòng địch phá hoại Hiệp định đình chiến.

  • NHẤT LÂM         Bút ký Năm 1948, từ đồng bằng huyện Triệu Phong, chúng tôi vượt quốc lộ 1A lên một xã miền núi, xã Phong An. Hồi ấy rừng bạt ngàn vô tận, xã Phong An chỉ cách thị xã Quảng Trị chừng mười cây số, do núi rừng ngút ngàn, mà trở nên xa vời như xứ sở lạ lùng ngàn dặm. Chúng tôi bảo nhau: đề phòng cọp từ bụi rậm vồ tươi như đùa. Nhìn núi cao và cây rừng trùng điệp, con người trở nên hồi hộp, lo sợ mơ hồ; lại đi ban đêm, đi lần đầu giữa rừng, sợ là tất nhiên.

  • HƯƠNG GIANG(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • HOÀI NGUYÊNTiếng tiêu trầm của nỗi cô đơn...

  • TRUNG SƠNTrong số những con vật gần gũi với con người, con mèo không đứng vị trí thứ nhất thì cũng nhì. Chỉ riêng việc chú mèo có đặc quyền thỉnh thoảng "chung chăn" với con người lúc trời mưa rét cũng đủ để xếp chú đứng ở thứ bậc cao trong mối quan hệ với con người. Cũng vì vậy, trong thành ngữ và tục ngữ có nhiều câu nói đến con mèo ngẫm ra khá thú vị.

  • ĐOÀN MINH TUẤN                     Tùy bútĐã từ lâu lắm, nhiều mùa xuân đã qua, nhà văn Đoàn Giỏi có cho tôi mượn cuốn sách rất hay viết về "chó và mèo trên thế giới" của hai tác giả người Pháp Marlyse et Frange.