Tô Hoài, hơn cả một nhà văn

08:45 09/07/2014

Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

Nhà văn Tô Hoài

“Mình không được học như Huy Cận, Xuân Diệu nên ít chịu ảnh hưởng Tây học và không biết nhiều về sự hình thành các khuynh hướng văn học. Chỉ là tự nhiên, mình thích viết về cuộc đời thực” - Đó là lời tâm sự của nhà văn Tô Hoài, trích trong cuốn “Tô Hoài – Sức sáng tạo của một đời văn” (tác giả Hà Minh Đức).

Là một trong những nhà văn có bút lực và sức đi dồi dào bậc nhất làng văn Việt Nam, nhưng ít ai biết rằng, thời còn trẻ, nhà văn Tô Hoài chưa từng học qua các trường lớp đào tạo bậc cao về chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Thuở nhỏ, ông chỉ học đến tiểu học rồi đi bán giày ba-ta ở Hàng Khay (Hà Nội). Vì vậy, hầu hết các kiến thức văn học và vốn sống mà nhà văn Tô Hoài có được đều do ông tự học, tự đi, tự nghiên cứu. Có lẽ cũng chính bởi vậy mà các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài đều gắn bó chặt chẽ và vô cùng gần gũi với đời sống người dân Việt Nam.

Một khi đã bước chân đến đâu, đã đặt bút viết về cái gì, ông đều cố gắng viết cho thật, cho “tới”. Điều này thể hiện qua những trang văn chứa đựng phong cách và phong tục tập quán của bà con vùng cao như “Vợ chồng A Phủ”, “Miền Tây”…; hay những câu chuyện thiếu nhi sống động về thế giới động vật như “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Một cuộc bể dâu”, “Cá đi ăn thề”…


Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài đã được chuyển thể thành một bộ phim cùng tên

Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ”; lại vừa có thể thổi hồn, nhân hóa những loài động vật nhỏ bé với một giọng điệu vô cùng hồn nhiên và trong sáng như trong “Dế mèn phiêu lưu ký”.

Không chỉ gắn bó với thể loại truyện ngắn, nhà văn Tô Hoài còn sở hữu một số lượng lớn các tác phẩm ký sự, du ký, hồi ký và cả tự truyện - sản phẩm của những chuyến đi dài, đi liên tục của ông từ lúc trẻ đến tận khi về già (từ Lào, Campuchia… đến cả các nước Âu, Mỹ, Á, Phi), mà ông thường coi là “bắt chước Dế mèn”.

Đi nhiều, viết nhiều nhưng văn của Tô Hoài hầu như ít lặp lại, đặc biệt không loãng và không nhạt. Tác phẩm nào cũng có một chiều sâu triết lý nhất định, nhân vật nào cũng có một thế giới nội tâm phong phú, dù cho nhân vật ấy là người hay những loài động vật. Đó là minh chứng rõ ràng nhất cho khả năng tìm tòi và sức sáng tạo dồi dào của ông.

Tuy nổi tiếng với vai trò nhà văn, nhưng ít người biết rằng: Tô Hoài cũng từng có một thời làm báo sôi nổi. Những tác phẩm văn học đầu tay nổi tiếng của ông viết trong những năm 1940 từng được đăng trên “Hà Nội tân văn chủ nhật” và “Tiểu thuyết thứ bảy”. Vì vậy, ông thường nói: chính nghề báo đã chắp cánh cho nghiệp văn chương của ông.

Các tác phẩm văn học của ông được chia làm 4 mảng chính: các tác phẩm viết về vùng núi rừng Tây Bắc trong thời kì kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về ngoại thành Hà Nội xưa và nay, sáng tác cho thiếu nhi, chân dung và hồi kí.


Tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới

Sau cách mạng tháng Tám, ông được phân công làm phóng viên báo Cứu quốc Trung ương (cơ quan Tổng bộ Việt Minh) tham gia phong trào Nam tiến; sau đó lên Việt Bắc làm Chủ nhiệm báo Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí Cứu quốc. Từ năm 1951, ông về Hà Nội công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam.

Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ lí do viết văn của mình rằng: “Chỉ là tự nhiên, mình thích viết về cuộc đời thực”. Nghe tưởng chừng vô cùng đơn giản, nhưng để có được những trang văn thật là “thực”, thật là “tự nhiên”, nhà văn đã phải lăn lộn tìm tòi, tự học và tìm hiểu trong nhiều năm trời thì mới có thể đưa thế giới rộng lớn vào trang sách một cách vừa chân thực, vừa nên thơ như thế.

Tuy đã dừng viết văn, dừng “phiêu lưu ký”, nhưng những trang văn sống động về từng bước đường đã qua của nhà văn Tô Hoài sẽ vẫn sống mãi.

Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động vật tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con đường đời dài rộng khi đã trưởng thành.

Nguồn: Minh Hạnh - TPO

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)