Tình yêu dâng hiến trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường

15:18 19/10/2009
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường - Ảnh: ngominhblog.wordpress.com

"Bức thông điệp vỏ chai" (Paul Celan) mà tôi là người nhận, đang giải mã và bằng trực cảm tâm linh, tôi nhận ra gương mặt tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đẫm chất nhân văn cao cả, với anh tình yêu là giai điệu của bài ca dâng hiến. Thơ anh không trau chuốt gọt đẽo đến cầu kỳ mà hồn nhiên như hơi thở hay chính cuộc đời anh hoá thân làm câu chữ để thắp lên khát vọng cho sự vô biên tuyệt đích, khát vọng vĩnh cửu trong tình yêu. Qua một số bài "Kỷ niệm dành riêng cho hoa Violét", "Bên kia những ngày thường", "Cỏ, chim sẻ và châu chấu", "Lời ngu ngơ của một gã mù", "Xin người một chút không", "Nơi tôi gởi bóng", "Dù năm dù tháng" "Dạ khúc"... thể nghiệm hành trình tình yêu vẫn thầm lặng chảy miên man rong ruổi theo tháng ngày giữa hai bờ hư thực, một hành trình vô cùng vô tận, người đọc dường như bị lôi đi, bị bỏ bùa bởi sự đê mê dâng hiến ngập tràn bằng những rung động mang tính địa chấn.

Xâu chuỗi qua từng trang thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường với thủ pháp lặp từ đầy âm vang điệp khúc "cho ta", " cho em"”cho anh” vang lên gọi mời dâng hiến:

Em rót cho anh ly rượu đầy
Em cho anh một chiều thong thả.
Hay
Em có lời thề dâng hiến
Cho anh trọn một đời người
...

Phải chăng cảm quan tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là cho nhiều hơn nhận. Tình yêu với anh là cõi huyền nhiệm thánh thiện tâm linh, nó trong trẻo như pha lê và quý giá hơn hết thảy mọi thứ trên trần thế, tình yêu với khát vọng chân thiện mỹ. Trong bài "Dạ khúc" mở ra một không thời gian chiều hay giờ xẩm tối, là giờ thiêng, khi mà ngã thể con người cảm thấy bị giam hãm, trong khuôn khổ sinh tồn bất toàn và hữu tử, khi nó khát khao hoà mình trong hoàn vũ tự tồn, sẵn sàng hiến mình cho sự hư vô, tịch diệt vì những khả năng tái sinh mới, thì "em bất chợt" hiện về như thiên sứ, em đến mang theo mật mã của đời anh. Có thể nhận ra sự vi tế ấy qua giọng thơ gấp gáp với cảm xúc hổn hển rung lên hàng nghìn cung bậc trong trái tim kẻ đang yêu. Hạnh phúc mà em mang lại trong "chiều trần thế" dường như đã cứu rỗi thân phận anh trên cây thập giá đời.

Có chiều nào như chiều xưa
Anh về trên cát nóng
Đường dài vành môi khát bỏng
Em đến dịu dàng như một cơn mưa
Có buổi chiều nào như chiều qua
Lòng tràn đầy thương mến
Mang cả xuân thì em đến
Thắm nồng như một bông hoa
Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi
Cho ta chiếc hôn nồng cháy
Nỗi đau bắt đầu từ đấy
Ngọn ngào như trái nho tươi.

Ở đây chỉ trong mười hai câu thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh em là cơn mưa, là bông hoa, là trái nho tươi. Ôi! Em như huyền thoại cổ xưa về nước như là một nguyên tố khởi thuỷ, nơi vạn vật phát sinh và vạn vật phải trở về cho vũ trụ được cải tử hoàn sinh. Trong đoản khúc trữ tình này, Hoàng Phủ Ngọc Tường phả vào đó hơi thở của sự sống mà em là thiên sứ mang hạnh phúc về nơi trần thế trên đôi cánh thiên thần.

Nhưng đằng sau những xúc cảm tuôn trào của anh vẫn chìm sâu ẩn mật một sự chiêm cảm sâu sắc. Cái độc đáo nhất trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về tình yêu là anh nhận ra gương mặt tình yêu, gọi tên nó và đưa đến một khái quát lớn, rằng tình yêu chỉ vĩnh hằng trong sự hiến dâng thánh thiện mà thôi. Vậy nên trong đam mê ngây ngất, chủ thể trữ tình đã nhận ra nỗi đau, một nỗi đau ngọt dịu "Nỗi đau bắt đầu từ đấy. Ngọt ngào như trái nho tươi". Và hơn thế nữa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm thấy sự tương phản giữa "chiều xưa"“chiều nay”; bức thông điệp về thời gian, thời gian cay nghiệt nó cuốn đi tất cả vào trong lòng nó và em cũng có thể trôi theo quy luật của cuộc đời.

Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
Anh lặng thầm như cái bóng
Hoa tàn một mình mà em không hay.


Anh đã nhận diện nỗi đau trong tình yêu trong một chiều kích mới: đó là sự thay đổi tình yêu ngay trong bản ngã con người. Anh sợ sự lưỡng diện trong em, thiên đường hay địa ngục cũng từ đó. Câu thơ khép lại rưng rưng nỗi đau được thắp lên thật nhân ái bởi em đã đánh rơi mình, em ra đi mang theo cả hương hoa tàn lụi, hình ảnh "hoa tàn" ở cuối bài Dạ khúc như một sự đổ vỡ cho những ai có tâm hồn quá ư nhạy cảm vì khát vọng tuyệt đối trong tình yêu. Bằng linh cảm tiên nghiệm Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận ra một cách sâu sắc rằng có tình yêu chưa đủ mà phải biết chăm lo vun xới nuôi dưỡng cho tình yêu ấy, nhân lên theo năm tháng cũng chẳng dễ gì. Bởi cuộc đời biết đâu đấy... ý niệm này đưa anh thể hiện trọn vẹn ở một bài thơ khác:

Chăm lo cánh đồng tình yêu
Anh đếm từng vầng trăng sáng
(Dù năm dù tháng)

Sự khái luận về tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường ta cũng từng tìm thấy qua tập thơ "Người làm vườn" của hiền triết Ấn Độ Tago. Tago từng quan niệm tình yêu như mảnh vườn mà con người cần vun xới mới hái được hoa thơm quả ngọt. Phải chăng do Hoàng Phủ Ngọc Tường, trước đây, từng nhiều năm dạy triết phương Đông mà có sự tương đồng này chăng?

Cũng cần đề cập đến với đề cái tôi trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi không ở đâu thể hiện cái tôi rõ nét bằng tình yêu trong quan niệm cho và nhận. Trước đây trong thơ mới nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... từng quay lưng với đời để tìm hạnh phúc nơi bồng lai, tiên cảnh hay trong ảo mộng. Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường có cảm quan mới về triết lý nhân sinh: anh đã tìm thấy hạnh phúc ngay trong trần thế do tình yêu mang lại với những ai biết vun xới và nâng niu nó. Chưa đâu hình tượng phụ nữ được tôn vinh, lên ngôi như trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hình tượng phụ nữ trong thơ anh lung linh một vẻ đẹp Á đông huyền bí, họ chính là suối nguồn yêu thương, dâng hiến nụ hôn nồng nàn trên đôi môi trần thế.

Cho ta một chút yêu kiều
Chút sương áo mỏng, chút chiều tóc bay
Trăm năm còn có heo may
Mùa thu hồng nhạn còn đầy trong ta
...
Này em mắt biếc nhìn đời
Cho ta soi bóng làm người tương tri"

Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo dáng câu thơ thành lời nói cá thể. Câu thơ có chủ ngữ nhân xưng "em" "anh" "ta"... biểu thị của lời nói chủ thể xác định.  Chất lãng mạn trong thơ anh luôn gắn với hiện thực thông qua cảm nhận về thế giới và con người một cách đặc thù. Ở đó, cái tôi trong thơ thể hiện khát vọng giải phóng cá tính, trả con người về bản chất tự nhiên. Thơ anh tạo không khí tâm tình cho thi sĩ thổ lộ, mở rộng với đời.

Điều tiên quyết về tình yêu trong thơ Hoàng phủ Ngọc Tường là phải có lòng tin và sự thuỷ chung. Bởi anh quan niệm tình yêu là nơi để soi bóng mình nhận diện mình. Nhân vật “anh" trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường xem tình yêu là nơi ký thác vận mệnh của đời mình, giá trị nhân phẩm con người được biểu hiện trên gương mặt tình yêu của họ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đem tấm gương tình yêu để soi rõ bóng dáng cuộc đời trong mỗi con người, tình yêu cứu rỗi nhân loại:

Giữ hoài cho màu nước
Sáng trong như lòng tin
Đừng để thấy trong em
Gương mặt tôi tan vỡ.

(Nơi tôi gửi bóng)

hay
Đọc trên môi em
Sức nóng của màu hoa phượng đốt cháy thành phố
...
Vâng, trên môi em,
Ta đọc lại ngọn lửa của nhân loại đã tắt ngấm
(Lời ngu ngơ của một gã mù chữ)

Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm thấy nguồn cảm hứng bất tận trong sự không chỉ lý tưởng hóa mà còn thần thánh hóa người yêu. Tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện như một tình cảm hồn nhiên, tươi sáng, làm đẹp cuộc sống con người, cất bổng nó lên khỏi thực tại đời thường ô trọc. Bởi thế, nhân vật trữ tình "anh" trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường có chiều kích mang tầm vũ trụ. Anh cũng dâng hiến đời mình bằng tất cả hành động mãnh liệt nhất, trãi qua những vật vả, nguy khó để tìm đến với em. Bằng hình ảnh ước lệ, tượng trưng, kỳ vĩ.

Bên kia những ngày thường
Có anh bơi tìm em qua những dòng sông
(Bên kia những ngày thường)

hay trong bài "Mùa xuân anh trở lại". Nhân vật anh cũng thiết tha dâng hiến, đi theo tiếng gọi vĩnh cửu của tình yêu không đắn đo suy tính tình yêu như là sự may mắn mà anh có được.
Anh yêu em rộng mãi những chân trời
Và mới mẻ như ngày đầu anh đến
Với hương lạ sóng cồn cửa biển
Chim phượng hoàng gọi nắng rừng xa

Thời gian cuốn trôi tất cả, thời gian vừa tái sinh vừa huỷ diệt. Dấu ấn thời gian trong bài "Dù năm dù tháng" là thời gian vĩnh cửu; tình yêu vận hành theo quy luật riêng không tuân theo logic đời thường; thời gian theo nhịp đập của trái tim mà trái tim lại mang trong mình nó sự vĩnh cửu, năm tháng không hề lay chuyển nổi. Sự dâng hiến của tình yêu là bất tận, mang giá trị vĩnh hằng. Nó rất gần với câu danh ngôn "Thời gian dập tắt tình yêu nhỏ, thổi bùng tình yêu lớn". Như thế, con người đã tìm thấy sự tồn tại của mình có ý nghĩa vĩnh hằng trong tình yêu và cám ơn tình yêu đã giúp con người chiến thắng sự hạn hữu, thân phận bé mọn của mình trong dòng vô thuy, vô chung.

Dù năm dù tháng em ơi
Tim anh chỉ đập một đời
Nhưng trái tim mang vĩnh cửu
Trong từng hạt máu đỏ tươi.

Với Hoàng phủ Ngọc Tường, tình yêu là vô giá, luôn được tôn vinh kể cả sự hy sinh cho tình yêu cũng là niềm hạnh phúc vô bờ bến. Thơ của anh phải đọc trong lúc bình tâm, thanh thản. Nó hiện lên những bức tranh về những khoảnh khắc của tâm trạng, của tình yêu và của những ước muốn suy tư. Vẫn biết rằng Hoàng phủ Ngọc Tường viết thành công trên nhiều thể loại, nổi tiếng nhất là ký, nhàn đàm... Tuy nhiên trên lĩnh vực thơ ca lại là nơi hành hương trở về lớn nhất của anh - trở về bản thể thi sĩ của chính mình. Thơ anh thánh thiện, toát lên ánh sáng ngọc trai ngậm bằng nỗi đau lắng lại sau bao cơn sóng vất vả của biển đời để khái quát nên triết lý cho tình yêu: hạnh phúc con người có được trong tình yêu chỉ thật sự bắt nguồn khi con người biết hy sinh dâng hiến cho nhau, tình yêu sẽ chiến thắng sự hữu hạn của kiếp người, đưa thiên đường về nơi trần thế.

Trong hành trình thơ hôm nay, bên cạnh những cây bút đa giọng điệu, khá thành công về mặt thi pháp. Thơ Hoàng phủ Ngọc Tường vẫn có điệu thức riêng. Nó diễn đạt rất kín đáo nỗi khắc khoải siêu hình của tâm hồn con người trong tình yêu, nó chỉ khêu gợi nhưng ám thị; nó mời gọi người đọc tự hoàn thành thông điệp của tác phẩm nghệ thuật trong tâm tưởng của mình. Cái duyên sức mê dụ hấp dẫn thẩm mỹ đặc thù qua nhiều bài thơ của Hoàng phủ Ngọc Tường là ở chỗ ấy. Trong đời người làm thơ chỉ để lại trong lòng người đọc một bài, một câu thơ đã là quý hóa. Riêng Hoàng phủ Ngọc Tường dù anh không muốn thành thi sĩ, thế nhưng những bài thơ của anh luôn được kết hợp với âm nhạc của Phú Quang như chắp thêm đôi cánh cho thơ ca thăng hoa và đến được với mọi người trong trạng thái xuất thần. Mặc dù thưởng thức và chiêm ngưỡng thơ là tuỳ ở con mắt đa tình và cái gout thẩm mỹ của từng người. Nhưng có lẽ nào những lời thơ tình nồng nàn dâng hiến đắm say đến thế lại không làm cho ta sống và yêu giữa cuộc đời tươi đẹp này. Như vậy Hoàng phủ Ngọc Tường đã vươn đến cái đích cao cả của nghệ thuật rồi vậy.

T.A.P
(190/12-04)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).