Tình người “một chốn đôi quê”

09:53 29/04/2021

NGUYỄN KHẮC PHÊ  

(Đọc “Miền quê thơ ấu” - Hồi ký của Thanh Tùng, Nxb. Thuận Hóa, 2020) 

Nhà báo Thanh Tùng (T.T) sau mấy chục năm “vào Nam ra Bắc” - từ người lính, người thầy đến nhà báo “tả xung hữu đột” lo chuyện “thiên hạ” trong nhiều cương vị ở báo Thừa Thiên Huế, rồi Trưởng Ban đại diện báo Tiền Phong tại miền Trung, đến nay mới có được những ngày tĩnh lặng để nhớ về “Miền quê thơ ấu” (MQTÂ) của mình. Còn tôi, đọc MQTÂ trong những ngày xuân mới, lại cùng cảnh “một chốn đôi quê”, có khác chi được bạn “dẫn” về thăm “chốn xưa”, thật là thú vị.

T.T mở đầu cuốn sách bằng một câu hát quen thuộc “Quê hương mỗi người chỉ một” nhưng liền đó, tác giả cho biết mình thuộc loại “cá biệt”. Nhiều bạn đọc - không chỉ ở Huế - đã quen thuộc T.T qua hàng ngàn bài báo, nhưng với hồi ký MQTÂ, lần đầu tiên, anh trình diện “gốc tích” mang đậm dấu ấn hai miền quê - Huế và Hà Tĩnh.

Thực ra, trường hợp “hai quê” như T.T không hẳn là “cá biệt”, do thời kháng chiến chống Pháp, sau ngày mặt trận Huế vỡ, rất nhiều gia đình ở Thừa Thiên Huế tản cư ra vùng tự do Nghệ Tĩnh. Không ít trí thức, cán bộ tên tuổi ở Bình Trị Thiên, từng sống và học tập tại hai ngôi trường danh tiếng Phan Đình Phùng, Huỳnh Thúc Kháng nhiều năm trên vùng đất Nghệ Tĩnh. Trước nữa, nhiều nhân vật lịch sử quê Nghệ Tĩnh thành danh trên đất Huế như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Đăng Lưu, Võ Liêm Sơn… Nhân đây, nói “xa đề” một chút, mối quan hệ - tương hỗ giữa Huế và Nghệ Tĩnh là một đề tài có hàm lượng lịch sử - văn hóa rất đáng bỏ công tìm hiểu. Trong MQTÂ, tác giả đã dành một chương viết về “Phòng Thí nghiệm số 1 ở Chu Lễ” ở thượng nguồn sông Ngàn Sâu (Hà Tĩnh), gồm nhiều phòng, ban, xưởng… phục vụ yêu cầu quân đội, trực thuộc Ủy ban Kháng chiến Liên Khu 4 (gọi tắt P1). Nhiều loại vũ khí thời đầu chống Pháp đã được sản xuất tại đây. Điều thú vị là “đứng đầu các cơ sở ấy do các giáo sư, nhà khoa học, trí thức, kỹ nghệ gia, doanh nhân nổi tiếng từ Huế ra. P1 do G.S Phạm Đình Ái, tốt nghiệp cử nhân Lý - Hóa Đại học Sư phạm Paris, Giám đốc Nha Giáo dục Trung Bộ phụ trách. Khi còn ở Huế, G.S Phạm Đình Ái kiêm nhiệm Hiệu trưởng Trường Khải Định (Quốc học Huế)… Với thành tích có tính huyền thoại này, P1 được Bộ Quốc phòng khen ngợi… Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay đánh máy một thư khen ngợi và giao cho ông Hồ Tùng Mậu vào Liên khu 4 trao cho G.S Phạm Đình Ái…”. Chỉ riêng câu chuyện quanh P1, với một nhà văn có tài, có thể viết thành một tiểu thuyết lịch sử thú vị!...

Trong “danh sách” vô cùng dài có mối quan hệ “hai quê” này, T.T quả là một trường hợp đặc biệt. Quê nội - ngoại của T.T đều là “Huế gin”, cũng thuộc hàng “danh gia vọng tộc”. Quê nội ở làng Quy Lai bên bờ sông Hương. Làng Quy Lai tôn vinh ông nội T.T là cụ Phạm Hữu Chuẩn làm tiên chỉ. Sinh thời, ông được triều đình phong tước Hồng Lô Tự Khanh. Nhà thờ tại làng Quy Lai đã được trùng tu, còn giữ được hoành phi, câu đối được các bạn đồng môn và dân làng dâng tặng vào mùa Xuân Đinh Sửu (1937)… Thân mẫu T.T xuất thân trong một gia đình Hoàng tộc, dòng Thọ Xuân Vương (em kế vua Thiệu Trị). Ông ngoại của T.T là Nguyễn Phúc Ưng Khương. T.T đã viết về ông ngoại “một nhân vật tương đối đặc biệt” như sau:

“Lần đầu tiên trong lịch sử, tôi thấy có một ông tri huyện, xuất thân Hoàng tộc, nhưng suốt đời làm quan không cất nổi một căn nhà, mà ở nhờ trong từ đường gia tộc (ở đường Đinh Công Tráng) hoặc ở nhờ nhà bên vợ (Từ đường họ Ngô, ở dốc Bến Ngự)… Ông ngoại là ấm sinh Quốc Tử Giám, đậu cử nhân Nho học, học thêm trường Tây, đậu Primaire. Triều đình bổ làm tri huyện nhiều nơi. Ở đâu ông cũng ngang tàng, ghét bọn cường hào dưới trướng, bênh vực dân nghèo… Hồi làm tri huyện Do Linh (Quảng Trị), có lần ông cầm ba toong đuổi một tên chánh tổng ra khỏi huyện đường khi hắn mang của đút lót đến mua chuộc ông xử sai lệch một vụ án…”.

Một người làm quan như thế không xây được tòa ngang dãy dọc nhưng đã để lại cho con cháu thứ tài sản quý hơn vàng: đó là nhân cách, là lòng tự trọng của một con người; cũng có thể nói thêm rằng: tài sản vô giá đó là vẻ đẹp tinh thần của những người con miền đất núi Ngự sông Hương! Chính vì thế, mấy bà dì cũng như song thân của T.T sau Cách mạng Tháng 8 đã bỏ lại cuộc sống yên ấm ở Huế, ra Bắc tham gia kháng chiến, khi Pháp trở lại xâm chiếm Huế. Cũng không phải ngẫu nhiên mấy cô gái Huế mà T.T gọi bằng “dì” đó, của hồi môn chẳng bao nhiêu, lại có bạn đời là những cán bộ thuộc loại VIP, giữ những chức vụ cao. Bác Nguyễn Văn Tấn chồng dì Hiền là Giám đốc Tài chính Trung Bộ; bác Trần Đường, chồng dì Trực “bám trụ” ngành công an những năm gian khó nhất suốt từ sau 1945 cho đến sau 1954, về hưu với hàm đại tá; dì Thành, ra Bắc sau, do 1945 - 1946 còn theo học Trường Đồng Khánh, tham gia phong trào học sinh Thuận Hóa, từng bị địch bắt giam, khi lên chiến khu cùng công tác với ông Đặng Thanh (tác giả một số tiểu thuyết tình báo) và ông Bảy Khiêm…, sau ra Bắc trở thành cô giáo dạy đại học; chồng dì là Nhà giáo Nhân dân, GS-TS Phan Hữu Dật, Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (thời chống Pháp, thầy là giáo viên Trường Nguyễn Chí Diểu ở Thừa Thiên). Thân phụ của T.T, cũng là một nhân vật nổi tiếng: NGƯT Phạm Hữu Quế, chiến sĩ thi đua số 1 toàn quốc ngành giáo dục năm 1952; ông còn là một người đa tài, sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ, chơi nhiều môn thể thao, đã xây dựng nên nhiều ngôi trường là điển hình tiên tiến… Ông Phan Cảnh Kế (bí danh Nguyễn Thiện), chồng dì Dung, từng là Thành ủy viên Huế từ những năm đầy gian khó đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, đã hy sinh trong Tết Mậu Thân 1968, khi quân Mỹ phản kích, lực lượng ta phải rút lên chiến khu… Trong đại gia đình này còn có dì Thái Trạch (dì Dư) và một người cháu lâm nạn ngay tại Từ đường ngoại tộc ở đầu cầu Bến Ngự khi quân giải phóng bám trụ ở đây…

Ở giữa tâm điểm biến động thời cuộc lớn lao sau Cách mạng Tháng 8, nhiều gia đình ở Huế, do những cơ duyên khác nhau, anh chị em con cháu người bên này, kẻ bên kia chiến tuyến. Gia đình bên ngoại của T.T cũng vậy; có điều, nhờ có “tài sản quý hơn vàng” thân phụ để lại, cậu Bửu Thu của T.T thời thuộc Pháp làm công chức Tòa Sứ, sau 1945 chuyển sang cơ quan Tài Chính Trung Bộ, nhưng năm 1947 về Huế ăn Tết rồi vô Sài Gòn cũng chỉ làm chuyên viên Tài chính, nghĩa là giữ trọn phẩm giá một con người lương thiện. Vậy nên ông vẫn sống đàng hoàng khi quân giải phóng tiến về Sài Gòn. T.T viết: “Tháng 5/1975, khi tôi vào Sài Gòn, cậu vẫn ngày ngày “sáng vác ô đi, tối vác ô về”. Từ nhà đến công sở khoảng 3km, ngày nào cậu cũng đi bộ trong trang phục quần Tây, áo sơ mi trắng có thắt caravat, chân đi giày đen, tay cầm ô che mưa nắng…”.

Và không chỉ cậu Bửu Thu, trong gia đình bên ngoại của T.T còn có bà dì và mấy người cháu sống ở miền Nam sau 1954 hoặc lập nghiệp ở trời Tây, “chị em, anh em bất đồng chính kiến là chuyện thường tình… Cũng may, từ ngày đất nước mở cửa, đổi mới, cách nhìn nhận từng vấn đề của “hai bên” dần dần bắt gặp nhau ở từng phương diện và trở lại sự gần gũi thân thiết như xưa.” T.T đã viết như thế, nhưng có lẽ anh chị em “hai bên trở lại sự gần gũi” không chỉ nhờ “đổi mới cách nhìn nhận” mà còn do các thành viên của gia tộc, dù ở chân trời nào cũng biết gìn giữ báu vật của ông cha để lại. Đúng như T.T đã viết: “Dù ở đâu, làm việc gì, tôi vẫn “giữ lấy lề, gìn giữ gia phong, giữ truyền thống và đôi khi có ít nhiều niềm kiêu hãnh của “người kinh đô cũ”…”.

Trong MQTÂ, tác giả dành phần lớn số trang cho miền quê thứ hai một thời đã xa; tuy vậy, chỉ qua những trang phác họa chân dung một số thành viên trong gia tộc nội ngoại của mình ở Huế, chúng ta hiểu thêm vùng đất Cố Đô đâu chỉ có các bậc đế vương và những danh nhân, “kỳ nữ’, mà còn một lớp người thầm lặng, thường là ở “hậu trường” hoặc là trong góc khuất các sự kiện lớn, nhưng chính họ lại là động lực làm nên lịch sử, là nơi lưu truyền những vẻ đẹp Huế, tính cách Huế đã được tiền nhân và tạo hóa hun đúc nên qua biết bao thăng trầm, thử thách…

*
Trong thế hệ “người Nghệ gốc Huế”, T.T đặc biệt hơn, không chỉ vì cả 5 chị em đều sinh ra và lớn lên tại Đức Thọ (Hà Tĩnh), mãi sau 1975 mới hồi hương; mà vì miền quê thứ hai ấy đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng anh, được thể hiện qua nhiều trang viết thật sinh động, chi tiết trong MQTÂ đến mức những cây bút quê Đức Thọ cũng phải… chào thua!

Do thân phụ của T.T công tác tại Sở Bình dân học vụ Trung Bộ, nên sau Cách mạng Tháng 8, sơ tán ra Liên khu 4 phải theo cơ quan ở nhiều nơi, mãi đến tháng 9/1949, khi được chuyển làm giáo viên Trường Phan Đình Phùng, rồi sau đó đảm nhiệm nhiều cương vị khác như Hiệu trưởng Trường Liên Bồng quy tụ học sinh 5 xã vùng Thượng Đức hay Trưởng Phòng Giáo dục huyện Đức Thọ…, 5 anh chị em của T.T đều được sinh ra và lớn lên bên sông La - Ngàn Sâu, chủ yếu “bám trụ: ở xã Đức Bồng, có chợ Bộng là một trung tâm thương mại, một chợ đầu mối của cả một vùng thượng lưu sông La.

Gần ba chục năm tắm gội nước sông La, ở tuổi gần thất thập, dòng ký ức tuổi thơ T.T lần đầu được dịp sống dậy, chảy tràn qua hơn 20 chương sách MQTÂ. Điều thú vị của MQTÂ so với không ít hồi ký khác là T.T chỉ ghi lại những điều thật gần gũi, nhỏ bé nữa, diễn ra quanh mình; không có các sự kiện lớn, không có chiến công mà cũng ít chuyện đau thương. Vì thế, đọc những trang hồi ký của T.T, chúng ta như được sống trong cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn con người tuổi ấu thơ; đó cũng là cội nguồn văn hóa của một vùng đất.

Đủ thứ chuyện trong MQTÂ; “nhỏ bé” như việc “nhổ tóc bạc”, T.T cũng có kỷ niệm thật vui; không phải nhổ cho các cụ, mà cho các bà bán hàng xén cùng mẹ T.T tại chợ Bộng chỉ mới khoảng trên dưới 40 tuổi; nhổ được 10 sợi thì được thưởng 5 xu; nhưng khi T.T bị hai thằng bạn xui dại nhổ tóc còn đen, khiến các bà kêu đau cho “giải nghệ” sớm! Chuyện các bà “gội đầu tập thể” thì quả là độc đáo. “Giống như các cô gái Thái rủ nhau ra suối tắm tiên, gội đầu cũng phải có bạn mới vui. Các bà thường rủ nhau “trưa ni vo trôốc hè!” Nhà bà Doán có cái thau đồng, nhà tôi có cái thau tráng men được huy động đựng nước nấu bồ kết. Các bà thường sai tôi chui hàng rào qua nhà ông Hàn Ấm trèo hái lá bưởi và xin lá chanh, lá sả… Bà này gội rồi chải tóc cho bà kia, chia làm hai ca… Gặp bà nào tóc dài thì bọn trẻ chúng tôi phải phụ việc dội nước và đỡ tóc để khỏi bị vướng xuống đất…”.

T.T dành đến gần chục trang viết chuyện gội đầu của các bà. Kể cũng phải vì “hàm răng mái tóc là vóc con người”, lại gắn với cảnh sắc hoa bưởi nở trắng vườn ngày Xuân và “những nồi nước sực nức hương liệu thiên nhiên”, rồi cảnh chị Chi có mái tóc vừa dày, vừa dài đến mức khi chị gội đầu, bọn trẻ “hè vô tranh nhau đứa thì phụ dội nước, đứa thì đỡ tóc trông giống như bây giờ hai đứa trẻ nâng váy cưới cho cô dâu…”. Cũng đề tài này, T.T viết bài “Miền gái đẹp” và thử đi tìm lời giải vì sao con gái miền trung du như Hương Sơn, Đức Thọ được nhiều chàng trai khen là đẹp. “Tôi thích cái đẹp lặn vào trong , cái đẹp bền vững, bất biến, kiểu như nhờ có gạo trắng nước trong mà da em trắng, vị ngọt phù sa nên má em hồng…”. Điều T.T viết, các nhà nghiên cứu thời thượng hôm nay gọi là “sinh thái học”. Cái đẹp miền quê từng nuôi dưỡng tuổi thơ chị em T.T còn là văn hóa. Có lẽ nhiều người sẽ bất ngờ khi biết ở vùng quê bên sông Ngàn Sâu xa thị thành thời gian khó lại có sinh hoạt văn hóa phong phú như thế. Xóm Lạc Phong có cả một đội tuồng. “Hồi đó ở Đức Thọ có ba người hát tuồng hay nhất là ông Oánh, ông Thiệu ở Đức Giang và ông Lý Hanh ở Đức Tân… Ông này về giao lưu và làm diễn viên cho đội tuồng của ông kia…”. Ông Oánh còn là người sưu tầm, chỉnh sửa các vở tuồng cổ, đồng thời làm đạo diễn và cũng là mạnh thường quân. Ông còn biết chú trọng việc quảng bá - ngày nay gọi là “PR” cho vở diễn. “Trước buổi diễn vài ngày, ông cho người đi dán áp phích khắp nơi… Chiều chiều thì cho diễn viên hóa trang, trang phục vào vai đi diễu hành… Bọn trẻ chúng tôi náo nức chạy theo…”.

Điều thú vị là ông Oánh diễn tuồng chỉ là một cách chơi. Ông là cán bộ lâm nghiệp; cũng như “Ông Ngụ bắt bè” là nhân viên trạm thủy lâm có tài hát tuồng “thích hợp với những vai tướng, soái hô hét mạnh tay mạnh chân, múa võ đẹp”; và như “thầy Quỵ mê nhạc, chơi các loại đàn cổ khá hay… Lâu lâu thầy lại tổ chức một buổi hòa nhạc tại nhà…”.

Chất “văn hóa” nơi vùng quê có thể gọi là heo hút ấy không chỉ biểu hiện ở những diễn viên “nghiệp dư” say mê đàn hát mà thấm nhuần vào mọi nếp sống; đâu chỉ có cảnh “gội đầu tập thể” mà cả trong công việc buôn bán kinh doanh ở tổ hợp tác may, rồi mở Nhà thuốc y học dân tộc… Đến ông Bài cắt tóc cũng làm trọng tài đá bóng và hát song ca với đứa cháu lúc xóm tổ chức văn nghệ…

*
Sau ngày đất nước thống nhất, gia đình T.T mới trở về “cố hương”; riêng T.T, lần đầu được đặt chân lên đất Huế khi đang là anh “lính Cụ Hồ”, đúng 1 tháng sau ngày giải phóng Huế. “Ngày 26/4/1975 là một ngày đặc biệt của cuộc đời tôi. Trên đường vào Nam, đơn vị tôi dừng lại ở Binh trạm Phú Bài…”. Trong khi chờ xe đi tiếp, T.T được phép lên Huế tìm thăm nhà. Sách báo đã thuật chuyện nhiều cán bộ miền Nam tập kết trở lại quê hương sau hai chục năm xa cách đã gặp không ít “trục trặc”, dở cười dở khóc. Thế mà chàng lính trẻ T.T có lẽ mới chỉ biết Huế qua trang sách lúc còn ngồi trên ghế đại học ở miền Bắc, nay đặt chân lên vùng đất mấy chục năm thuộc thể chế khác ở bên kia vết đau chia cắt Hiền Lương, cũng gần như là đến một “hành tinh” xa lạ, đã dễ dàng tìm ngay ra nhà bên nội ở Gia Hội, nhà bà ngoại gần chợ Bến Ngự! T.T lý giải nguyên do là “Ba tôi khai báo lý lịch rất rõ ràng và trung thực, dù có bị ảnh hưởng đến cái mà người ta gọi là công danh…”. Có lẽ cần bổ sung thêm: Thân phụ T.T trung thực vì biết “gìn giữ gia phong, giữ truyền thống” của một người con xứ Huế; và đó cũng chính là cội nguồn tạo nên sức đề kháng để Gia Hội và Bến Ngự vẫn giữ được hình bóng xưa, bà con ở đó vẫn không quên “người xưa”, dù đã trải qua bao cuộc “bể dâu”…

Trong lớp người “một chốn đôi quê” như T.T, có một nhân vật mà T.T gọi là “Người mắc nợ sông Hương” trong bài viết đăng Tạp chí Sông Hương tròn 20 năm trước (4/2001). Đó là TSKH Hồ Ngọc Phú, Giám đốc Sở Thủy lợi Bình Trị Thiên. Những trang cuối MQTÂ, tác giả đã kể lại, trong lễ mừng thọ thân phụ mình 84 tuổi, cụ Phạm Hữu Quế không giới thiệu Hồ Ngọc Phú với nhiều chức danh, học vị danh giá, mà thân mật nói rằng: Đây là học trò của mình từ cấp 1, cấp 2 Đức Thọ, nay đã hơn 60 tuổi, nhưng chưa về hưu được vì hồ nước Tả Trạch chưa được khởi công… Còn “trò Phú” 65 tuổi thì ca ngợi “người thầy đầu tiên” như là một thần tượng, “một người thầy sống thanh bạch, lạc quan và rất đỗi tin yêu, rất đỗi tự hào về các thế hệ học sinh của mình…”. Hơn nửa thế kỷ qua mà thầy trò vẫn thân thiết, gắn bó như xưa. Dù đã trở về bên sông Hương quê mẹ, ký ức những tháng năm uống nước sông La vẫn dạt dào trong tâm hồn thầy và trò…

Tiến sĩ lý luận văn học Nguyễn Đức Mậu đã viết về MQTÂ như sau: “Bạn đọc sẽ thấy ở hồi ký này ngoài tình cảm sâu nặng, sự hồi tưởng ít nhiều có tính khảo cứu, còn chứa đầy cảm xúc nhân văn phong phú… Những cái đời thường lưu lại được trong ký ức là những cái nuôi dưỡng đời sống văn hóa mỗi người…”. Và như thế, người có duyên hai quê như T.T, từ vốn sống, kiến thức đến tâm hồn đều phong phú; cũng có thể hình dung nhà báo T.T như được chắp cánh để có thể cống hiến nhiều hơn cho đời. MQTÂ mới chỉ là Tập I, được biết T.T đã hoàn thành bản thảo 2 tập tiếp theo là “Vẫn xanh màu lính”“Đường đời lắm nẻo” viết về thời trong quân ngũ và những gian nan, những thử thách đối với những nhà báo chân chính.

N.K.P  
(SHSDB40/03-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.