Tính nghiêm túc của một tuyển tập thơ

15:39 28/10/2008
PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

Việc tổ chức công bố kết quả này vào Ngày Thơ Việt tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội có thể xem là sự khẳng định công khai của Hội Nhà văn Việt .
Nếu quả như thế thì thật đáng mừng. Tuyển tập thơ sẽ là món quà vô cùng quý giá không chỉ cho những người yêu thơ, nó còn là báu vật cho hàng triệu người Việt xa quê, cho bạn bè quốc tế hiểu tinh hoa một thế kỷ thơ Việt Nam, và đặc biệt, nó là cẩm nang cho hàng triệu học sinh, sinh viên trong học hành và thi cử. Chính ông Lê Lựu cũng ý thức rõ mục đích thay đổi sách giáo khoa văn học trong tương lai, khi ông cho rằng tuyển thơ “giúp NXB Giáo Dục nhìn lại được thẩm mỹ thơ của công chúng và giúp họ có sự lựa chọn rộng rãi và mềm mại hơn khi đưa thơ vào chương trình giáo dục. Những bài thơ trong sách giáo khoa trước đây có lẽ hơi khô khan và mang nặng tính giáo dục, mà học sinh còn cần cả những cái khác nữa, trước hết là cần thơ phải hay”. (Tuổi trẻ online ngày 5/3/2007).

Đã là tuyển chọn thì bao giờ cũng mang tính chủ quan của người tuyển, khó tránh khỏi hợp ý người này, khác ý người kia. Tuyển thơ lại càng khó, không tránh khỏi tranh cãi. Muốn có sự đồng thuận rộng rãi 100 bài thơ hay nhất, tinh hoa một thế kỷ thơ Việt đòi hỏi tính nghiêm túc của sự tuyển chọn rất cao. Chúng tôi thực sự băn khoăn trước kết quả của cuộc tuyển chọn này.
* Đây có đúng là 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX không? Câu trả lời của chúng tôi là: Không.
Nếu chỉ lấy một tiêu chí “Những bài thơ hay nhất thế kỷ XX” thì tuyển thơ phải loại đi rất nhiều bài không thể xem là hay nhất thế kỷ, không mấy ai biết, để nhường chỗ cho những bài thiếu vắng nhưng từ lâu đã đi vào lòng người. Tôi tin rằng nếu người bình chọn là học sinh, sinh viên thì đa số sẽ biết những bài thơ hay như Vội vàng của Xuân Diệu, Lá diêu bông của Hoàng Cầm, Việt Bắc của Tố Hữu, Các vị La hán chùa Tây Phương của Huy Cận, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy...; chứ chẳng mấy ai biết Một vị tướng về hưu (dễ nhầm với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp!), Gửi bác Trần Nhuận Minh, Dặn con, Tháp Chàm, Nói sao cho vợi, Một ngày ta ngoái lại, Bông và Mây, Trời và Đất, Những đứa trẻ chơi trước cửa đền...

* Đây có phải là 100 nhà thơ xuất sắc nhất của thế kỷ XX không? Câu trả lời cũng là: Không.
Tôi tôn trọng các nhà thơ, nên tin rằng nhiều người có tên trong tuyển này không khỏi băn khoăn khi được đặt ngang hàng với Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên... trong tốp 100 nhà thơ xuất sắc nhất thế kỷ.
Bài Hai sắc hoa ti gôn có một thời được nhiều người thuộc, nhưng bài thơ ấy và tác giả T.T.K.H thuộc tốp 100 hay nhất thế kỷ thì chưa phải.
Thế kỷ XX, đã tính đến Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, sao không có Chu Mạnh Trinh, đã có Sóng Hồng, sao không có Phan Bội Châu?; đã có Nguyễn Đức Mậu, Trúc Thông, Vũ Đình Minh thì cũng có thể có Trần Vũ Mai, Ngô Thế Oanh, Dương Kiều Minh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Chiến...; có Đinh Thị Thu Vân, Lê Thị Mây sao không có Thúy Bắc, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến v.v..
Trần Đăng Khoa từng giới thiệu Trần Nhuận Minh được công chúng đánh giá là Đỗ Phủ của Việt Nam, rằng ông Minh, ông Khoa như là Đỗ Phủ, Lý Bạch. Tôi cho rằng ông Khoa thì chẳng Lý Bạch tí nào, còn ông Minh với Nhà thơ và Hoa cỏ, có nét trầm tư mặc tưởng đồng điệu với thơ Khoa trong Góc sân và khoảng trời, cái nét ưu tư từng trải rất hiếm có ở trẻ em tám chín tuổi. Ở nước ngoài thì không rõ (ông Khoa nói thơ ông Minh được dịch ra nhiều thứ tiếng), chứ trong nước thì người đọc biết đến ông này ít hơn nhiều so với những tên tuổi vắng mặt trong tuyển này như Thạch Quỳ, Trần Mạnh Hảo, Hoàng Nhuận Cầm...

* Đây có phải là những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho mỗi tác giả không? Câu trả lời cũng lại là: Không.
Nói đến Nguyễn Bính, người đọc thường nghĩ đến Chân quê, Lỡ bước sang ngang... chứ không ai nghĩ Những bóng người trên sân ga là bài thơ xuất sắc nhất của ông. Tiêu biểu cho thơ Tố Hữu không phải Khi con tu hú, Bùi Minh Quốc không phải Có khi nào, Trần Đăng Khoa không phải Gửi bác Trần Nhuận Minh, Hữu Thỉnh không phải Nghe tiếng cuốc kêu...
Với Tố Hữu, chọn Khi con tu hú là không nên. Chẳng nhẽ toàn bộ sự nghiệp thơ của ông, chủ yếu với hàng loạt tập thơ sau này, từ Việt Bắc, Gió lộng, Máu và hoa, Theo chân Bác... sản phẩm đích thực của văn học cách mạng lại không chọn được bài nào?
Trần Đăng Khoa nổi tiếng là thần đồng thơ và dừng lại với Góc sân và khoảng trời. Một Trần Đăng Khoa thơ ở tuổi trưởng thành đứng khuất lấp rất xa phía sau các bậc đàn anh trên thi đàn, những Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Vương Trọng, Trần Mạnh Hảo, Thạch Quỳ, Phan Thị Thanh Nhàn...; đến nỗi gần đây Nhà xuất bản Thanh niên cho biết người đọc ngày nay vẫn tưởng Khoa đang tuổi khăn quàng đỏ! Sao lại chọn Gửi bác Trần Nhuận Minh? Đành rằng cái chất thù tạc này vốn có từ thuở thiếu nhi, nhưng cái mảng “kính thưa, kính gửi, kính tặng” ấy tự tác giả cũng bỏ bớt đi nhiều mỗi lần tái bản, chẳng nhẽ lại tiêu biểu cho Trần Đăng Khoa.

Phải chăng Hội đồng tuyển chọn muốn người đọc hiểu phong cách đa dạng hơn của mỗi tác giả? Nếu vậy thì có thể chọn bài thơ khác. Chẳng hạn, khi đón trước thời cuộc mà những cục đất trở thành ông bình vôi, những nhân vật trồi lên trong xã hội hiện tại, Hữu Thỉnh có một bài thơ với những câu như:
Mưa rơi hạt chắc đầu bông rụng
ếch nhái kêu ran, cỏ hội hè
hạt lép vồng lên trương với gió
đồng như canh bạc, nước như mê...
Tóm lại, để có 100 bài thơ của những tác giả tiêu biểu nhất, tinh hoa của một thế kỷ thơ Việt cần sự tuyển chọn nghiêm túc và công phu hơn nữa.
P.G

(nguồn: TCSH số 218 - 04 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.