Tình bạn trong thơ Ngô Đức Tiến

14:42 03/08/2009
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

Những câu rất cảm, rất tình: “Nước mắt nhớ Tường chảy trên giấy thành thơ” (Người bạn cũ). “Có phải Truông Dong ngăn bớt gió nồm/ Nên bầu bạn ít về thăm Lạt.” (Một thoáng Tân Kì). “Chẳng đứa nào quên được/Tiếng còi tàu thổn thức một đêm Sy” (Sông Bùng). Một đêm Sy, một đêm thức trắng chờ tàu ở ga đầu cầu cho cả xứ “Đông Yên nhị huyện” vào nam ra bắc.

Tạp chí Sông Hương số tết Giáp Thân (số 179 và 180) tạp chí được coi là “Văn nghệ địa phương tầm vóc trung ương” đăng tải một lúc 81 bài thơ đa tài, đa dạng, đa phong cách, giọng điệu và quan niệm thơ hiện đại. Lọt thỏm vào rừng 81 ấy, có 1 bài lục bát tứ tuyệt xinh xắn, bình dị, ý, tình, lời, nhạc đều khá. Đọc xong thuộc ngay vì nó gọn ghẽ, thuần phục có ray rứt nghĩ suy, ám ảnh người đọc. Đó là bài Bạn của nhà thơ Ngô Đức Tiến, Yên Thành, Nghệ An.

Bạn
Bạn đi hơn chục năm trời
Hòn Thàng ngày ấy bời bời cỏ lau.
Bạn bè nhìn trước ngó sau,
Gần nhau thì lắm, hiểu nhau mấy người.

Phải nói ngay rằng thơ về đề tài tình bạn của Ngô Đức Tiến ở mỗi bài đều có một địa chỉ được bộc lộ qua thời gian và không gian khá rõ. Người bạn thân đã mất ở đây là người bạn ấy. Những người sống quanh anh, có thể xác nhận được điều đó qua thơ và đối chứng vào cuộc sống. Đây mới thực là điều khó.

Nếu trong cuộc đời không có bạn tri âm thì làm sao diễn tả được một cách chân thực tự nhiên về tình bạn? Thay vào đó là những giọt nước mắt gượng hoặc hoài niệm chung chung mà thôi. Thế là bạn đã mất “hơn chục năm trời” Câu thứ 2 là câu hay nhất của bài lục bát tứ tuyệt này. Ai làm tứ tuyệt cũng có ý thức trau chuốt, dồn nén, đầu tư cho câu 4 thật hay, thật kết và dứt luôn (Tuyệt) thì mới rõ người thơ tứ tuyệt có nghề. Bài thơ tứ tuyệt cuối cùng của Tố Hữu câu kết là “Sống là cho mà chết cũng là cho”, khái quát quá và chấm dứt, không ai có thể phát triển bài thơ được nữa. Bài này câu 4 cũng hay nhưng chưa bằng câu 2. Anh vừa giới thiệu xong về thời gian hoài niệm người bạn ấy đã khéo léo cho mọi người biết người bạn ấy là người nào. Địa chỉ Hòn Thàng xuất hiện đúng lúc để xác nhận tính chân thực của 4 dòng thơ hướng nội này. Hòn Thàng ngày ấy, hơn 10 năm trước còn “bời bời cỏ lau”. Có thể nói từ hay nhất trong bài thơ là từ láy “bời bời”. Bốn chữ “bời bời cỏ lau” là mới, là gợi, là hồn của bài thơ. Ngày ấy, nơi ấy quê tôi hoang dại lắm, cỏ lau tốt lút người. Xưa nơi đây từng có khỉ, có hồ, có nhiều rắn ở rừng sâu về thấp thoáng xứ cỏ lau này. Hình tượng cỏ lau trong văn của Nguyễn Minh Châu từng là biểu tượng của văn học thời đổi mới. Hình ảnh cỏ lau quê tôi đồng nghĩa với một “thời xa vắng” thiếu lương thực, thiếu đủ thứ, người dân phải “thắt lưng buộc bụng” sau chiến tranh. Họ dùng ý chí cần lao ‘mo cơm quả cà” để “sắp đặt giang sơn”. Câu thơ của anh Tiến làm tôi nhớ đến ngày ấy, nơi ấy, chỉ một đêm thôi hàng trăm ngôi nhà ngói vùng đồng bằng được xếp gọn lên xe bò lốp nối đuôi về Hòn Thàng lập xóm mới, đào giếng sâu 16m chưa có nước.

Ơi quê tôi, vùng ấy, thời ấy, “hồi ức Làng Che”, “Dòng sông cụt” qua truyện ngắn Nguyễn Đức Thọ mãi mãi đi vào văn học. Chỉ thiếu hình tượng ông Khúng nữa là rừng cỏ lau bời bời này thành cỏ lau của nhà văn mở đường đổi mới.

Sau khi đã hoài niệm và hé mở hình ảnh người bạn tri âm tri kỉ của mình, phần còn lại dành cho suy ngẫm (kiểu kết cấu cổ điển của thơ tứ tuyệt). Bạn thân đã ra đi mòn dần, ở lại với đời không còn nhiều nữa, hàng ngày anh phải “nhìn trước ngó sau” mới tìm được bạn hiền trong hàng hàng các gương mặt thường gặp. Vẫn còn chạm trán hàng ngày đấy thôi, nào đồng chí, đồng môn, đồng hương, đối tác, người cùng cơ quan, người các hội, các cơ sở, nhiều lắm. Có lúc bắt tay giật giật rồi, óc vẫn lục tìm danh tính. Có người đã quên béng tên bạn vẫn dùng tiểu xảo “tên cậu vẫn như xưa chứ”? Đúng cứ gọi Bá thế thôi có thay gì đâu”. Nhờ thế để bớt sự trơ trẽn “Xin lỗi cậu tên gì nhỉ, mình đoảng quá.”. Vậy nên “bạn hiểu nhau” là bạn tâm đắc, bạn thân, bạn vàng với tất cả nghĩa cao quý của các từ đó. Ai có nhiều bạn thân đến mức so được với tình bạn Dương Khuê - Nguyễn Khuyến. Bao nhiêu điếu văn khóc bạn thời nay xuất hiện có so nổi bài song thất lục bát “Khóc Dương Khuê” không? Chân thành, thống thiết, những cái trái thông thường vãn thấy cảm động rằng mình nhiều tuổi hơn vẫn công khai tôn xưng bạn bằng bác “Bác Dương thôi đã thôi rồi”, “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác”.

Bạn trong thơ và bạn trong đời của Ngô Đức Tiến là một. Sống sao viết vậy. Viết về những người sống quanh ta cả mà. Đấy có phải là một giá trị, một tính chất cần và đủ của thơ không? Nhất là trong những bài thơ hướng nội?

Không dám bàn về thơ hiện đại, nhưng tôi nghĩ đơn giản rằng: Ngôn ngữ của thơ không thể là ngôn ngữ của báo chí và văn xuôi. Ai đã có ý, nhưng chưa có từ, có hình ảnh và nhạc điệu thì cứ tha hồ trổ tài bằng đoản văn, tạp bút, chứ cần gì phải nhảy vào thơ. Muốn có một bài thơ về bạn thì nhất thiết phải có bạn thuỷ chung, nối khố đã. Ngô Đức Tiến là một người như thế.

H.V.H
(183/05-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?