BÙI VIỆT THẮNG
(Phác vẽ quang cảnh truyện ngắn năm 2013)
Cuộc thi truyện ngắn 2013 - 2014 do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức - Ảnh: VNQĐOnline
Dấu ấn một cuộc thi
Phải nói ngay rằng những cuộc thi và thậm chí các giải thưởng lớn không phải lúc nào cũng tạo nên các giá trị lâu bền của toàn bộ nền văn học. Nhưng chí ít, trong một chừng mực nào đó, các cuộc thi là những “sân chơi”, những “vũ đài” thi thố sức lực chữ nghĩa. Cuộc thi truyện ngắn 2011 - 2012 do báo Văn Nghệ tổ chức đã khép lại từ cuối tháng 2 năm 2013, nhưng dư âm của nó vẫn còn khá mạnh (một cuộc thi có đến gần 2000 tác phẩm dự thi, báo Văn Nghệ và Văn Nghệ Trẻ đã in khoảng 400 truyện). Một ấn phẩm văn chương đầy đặn của cuộc thi là Đất tụ long (Nxb. Hội Nhà văn), gồm 33 truyện ngắn được giải, ra mắt độc giả như một bằng chứng về triển vọng của thể loại “nhỏ” trong bối cảnh văn hóa đọc đang có nhiều xáo trộn. Cuộc thi truyện ngắn 2011 - 2012 do báo Văn Nghệ tổ chức với thành công, như chúng ta thấy, đã truyền một cảm hứng sáng tác, một quyết tâm luyện bút của người viết đặng có thể làm cho thể loại “nhỏ” có địa vị xứng đáng trên văn đàn đương đại. Một cuộc thi để lại dấu ấn, tạo dư ba và kinh nghiệm nghệ thuật cho văn giới. Truyện ngắn trên báo Văn Nghệ và Văn Nghệ Trẻ sau cuộc thi vẫn giữ được nhịp độ và phong độ cũng như phong vị riêng. Nói một cách lạc quan - tất nhiên phải có cơ sở - thì truyện ngắn là thể loại có sức sống trong văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Người ta vẫn hô hào bây giờ là “thời của tiểu thuyết”, nhà văn phải viết tiểu thuyết mới xứng đáng, mới thực tài (hay quá phấn khích như tác giả Thuận, người vừa cho ra mắt tiểu thuyết thứ sáu Thang máy Sài Gòn, cho rằng mình đã may mắn đoạn tuyệt với truyện ngắn chỉ để viết tiểu thuyết, vì “tiểu thuyết là si mê dai dẳng”!?). Ít ai ưu ái và lạc quan nói bây giờ là “thời của truyện ngắn”. Nhưng mặc lòng, truyện ngắn cứ khi âm thầm, lúc sôi động khẳng định vị trí không thể thiếu trên văn đàn. Thêm nữa, báo Văn Nghệ vốn luôn luôn là một địa chỉ văn chương tin cậy, một tổ chức nghề nghiệp có uy tín và kinh nghiệm tổ chức các cuộc thi truyện ngắn từ những năm 50 - 60 của thế kỉ trước cho đến tận hôm nay. Trong những cuộc thi truyện ngắn vài chục năm gần đây, có lúc báo Văn Nghệ đã tổ chức được một “bữa tiệc văn chương thịnh soạn” (Cuộc thi năm 1991 chẳng hạn). Những tên tuổi trưởng thành qua các cuộc thi truyện ngắn do báo Văn Nghệ tổ chức thật không hổ danh trước một công chúng nghệ thuật ngày càng thông minh, khó tính và đôi khi khá đỏng đảnh.
Ấn tượng mới
Cuộc thi truyện ngắn 2013 - 2014 do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức được chính thức phát động vào tháng 5 năm 2013, nhưng đã thực sự được khởi động từ trước. Một trại sáng tác do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức vào tháng 5 năm 2013 (tại Sa Pa, với lực lượng khá hùng hậu 25 trại viên) đã thu hút nhiều cây bút có triển vọng từ nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực công tác, nhiều lứa tuổi khác nhau tham dự. Tôi nghĩ đây như một cuộc “giao ban sáng tác” lí thú khi có những cây bút chững chạc, nhiều hứa hẹn tham gia như Nguyễn Đăng An, Nguyễn Thái Sơn, Doãn Dũng, Vũ Thanh Lịch, Chu Thị Minh Huệ, Tống Ngọc Hân, Đinh Phương, Võ Diệu Thanh… đã trở thành những tên tuổi quen thuộc với độc giả riêng thích truyện ngắn hôm nay. Tên tuổi quen thuộc có, tên tuổi mới có. Người mới viết có, người thạo nghề văn chương có. Nhưng gặp nhau ở một điểm - yêu thích, say mê truyện ngắn. Có người còn trẻ nhưng đã có kinh nghiệm viết truyện ngắn ngay từ khi còn là sinh viên như Đinh Phương (anh vừa tốt nghiệp khóa 11, Khoa Viết văn - Báo chí, trường Đại học Văn hóa Hà Nội) với Chiều ký ức phủ gai, Lau lách chiều trắng xóa (và một truyện không dự thi in sớm là Hoa gạo đỏ kinh thành). Có người làm thơ khá thành công, nay bỗng bén duyên truyện ngắn và chăm chút cho những đứa con tinh thần mới của mình như Nguyễn Thị Ngọc Hà với Ông thủ thừ làng Vẽ. Có người ồn ã chất lính như Trần Đức Tĩnh (tốt nghiệp Đại học VHNT Quân đội) với Lính cậu được viết theo lối “phá cách”. Chủ tịch hãng thời trang IVY Moda Doãn Dũng (đã in một tập truyện Bóng anh hùng, 2012) với Âm thanh của ký ức khá thâm thúy, dù cho anh viết truyện “như chơi”. Một Lục Mạnh Cường xuất hiện khá nhiều trên Văn nghệ Công an, nay trên sân chơi mới có Nàng Hương đậm chất rừng núi, nhiều cái lạ và kì thú. Vũ Thanh Lịch đang ở thế thượng phong, có Người đi tìm cánh tay, Mây vờn trên đỉnh Mã Yên. Có cô giáo đồng hương Hà Tĩnh chúng tôi - Tống Phú Sa - với truyện Cô Khang hết sức mộc mạc nhưng có dư ba, thấm vị chua xót về phận người. Dương Đức Khánh với Nửa ngày chiến tranh, Nguyễn Thái Sơn với Mất tích cho độc giả thêm những góc nhìn mới về chiến tranh. Có tác giả định cư ở CHLB Đức như Văn Tất Thắng với Cô Thủy - một truyện gọn ghẽ, xinh xắn đong đầy hoài niệm, có sức chứa và sức gợi khiến độc giả ám ảnh. Lê Mạnh Thường công tác trong lực lượng Cảnh sát biển có Hoài niệm U Đôm Xay với lối viết “ăn sóng nói gió” rất đặc trưng. Trên báo Văn Nghệ số 33 (năm 2013) đã có bài phê bình tập truyện ngắn Biển khóc của tác giả này. Khi chúng tôi thực hiện tiểu luận này thì cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức mới đi non nửa chặng đường dài hai năm. Có thể sẽ có bất ngờ ở phút 89, cuộc đấu nào chẳng gây cấn và hồi hộp theo cách đó (nhất là bóng đá và văn chương, dường như có một điểm tương đồng thú vị).
Thể loại nhỏ tung hoành
13 tập truyện ngắn xuất bản trong năm 2013 (cho đến thời điểm chúng tôi hoàn thành tiểu luận), là rất đáng đọc, chúng thuộc sở hữu của những cây bút có cá tính: Sẫm viôlet (Nxb. Văn học) của Nguyễn Văn Thọ, Người đàn bà nghịch cát (Nxb. Hội Nhà văn) của Nguyễn Đăng An, Bảy nàng Bạch Tuyết và Chú Lùn (Nxb. Văn học) của Nguyễn Hiếu, Ngủ giữa trùng sơn (Nxb. Văn học) của Lê Vũ Trường Giang, Đàn bà đẹp (Nxb. Văn học) của Đỗ Bích Thúy, Bông dẻ đẫm sương (Nxb. Quân đội Nhân dân) của Chu Thị Minh Huệ, Biển khóc (Nxb. Quân đội Nhân dân) của Lê Mạnh Thường, Tiếng hát liêu điêu (Nxb. Trẻ) của Nguyễn Mỹ Nữ, Khi chim đỗ quyên kêu (Nxb. Hội Nhà văn) của Nguyễn Tiến Lộc, Bước qua vườn địa đàng (Nxb. Văn học) của Vũ Thị Tuyết Mây, Cổ tích một bức tranh (Nxb. Văn học) của Lê Trung Tiết, Đêm không bóng tối (Nxb. Hà Nội) của Tống Ngọc Hân và Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình (Nxb. Hội Nhà văn) của Trịnh Minh Hiếu và (…). Riêng tôi nghĩ nếu tìm 13 tập thơ hoặc 13 tiểu thuyết đáng đọc, xuất bản trong năm 2013, thật không dễ dàng gì nếu so sánh với truyện ngắn.
Sẽ có người căn vặn - tại sao lại là 13? Có thể rất ngẫu hứng, chúng tôi chọn con số 13, vì năm nay là năm 2013! Thực ra trong một năm, tác phẩm văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng, là rất nhiều. Nhưng vì nhiều lẽ khác nhau: Một là “lực bất tòng tâm”, một người dù không làm gì ngoài đọc cũng không xuể. Hai là văn chương trọng cái “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Ba là, đây chỉ là một góc nhìn của một người yêu văn chương và có điều kiện theo dõi văn chương đương đại. Lẽ dĩ nhiên là còn một con số lớn hơn 13 đối với truyện ngắn trong một năm sôi động của thể loại “nhỏ”. Nhưng bất kì sự quan tâm và quan sát nào của một cá nhân cũng có giới hạn nhất định của nó. Xin được quý độc giả xa gần lượng thứ cho chúng tôi.
Hai mặt của truyện ngắn
Chúng tôi chia sẻ với quan niệm của nhà văn Nguyên Ngọc về truyện ngắn “Không nên nhất thiết trói buộc truyện ngắn vào những khuôn mẫu gò bó. Truyện ngắn vốn nhiều vẻ. Có truyện viết về cả một đời người, lại có truyện chỉ ghi lại một giây phút thoáng qua. Từ lâu tôi đã có ý nghĩ như vậy, nay đọc lại thực tế truyện ngắn mấy chục năm qua, càng thấy cần có cái nhìn cởi mở, mới ôm trùm hết phạm vi của truyện ngắn” (Dẫn theo Vương Trí Nhàn - Sổ tay truyện ngắn, Nxb. Tác phẩm mới, 1980, tr.26). Truyện của các tác giả có tuổi, nhiều trải nghiệm như Nguyễn Tiến Lộc, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Thị Ngọc Hà, Nguyễn Đăng An, Lê Trung Tiết… bao giờ cũng hướng tới những “kiếp người”, mỗi truyện như là một bản lí lịch đầy đủ về một con người hơn là những “lát cắt” đời sống, soi dọi những “khoảnh khắc” đáng nhớ nào đó. Truyện của những người trẻ tuổi hơn như Đỗ Bích Thúy, Vũ Thanh Lịch, Chu Thị Minh Huệ, Tống Ngọc Hân, Võ Diệu Thanh… thường nghiêng về những “lát cắt”, “khoảnh khắc” đời sống độc sáng (như là lí lịch trích ngang của một người, nếu có thể ví von như thế). Lại có người rất trẻ như Lê Vũ Trường Giang trong tập truyện Ngủ giữa trùng sơn lại đắm đuối với lịch sử, lại muốn truy nguyên ngọn nguồn nhiều chuyện đời trong dòng chảy bất tận của nó. Viết truyện ngắn theo cách nào là thuộc “sở trường sở đoản” của mỗi nhà văn, cái đích cuối cùng vẫn là tác phẩm hay. Vì có người sống cả một đời bình thường, bình lặng với những phẩm tính và vẻ đẹp khuất lấp. Lại có những người sống mạnh mẽ, cuồn cuộn, chói sáng ở một “khoảnh khắc” nào đó (vì “có những phút làm nên lịch sử”).
Có thể nói truyện ngắn xứng đáng là thể loại xung kích của văn học, rất năng động và đang mở rộng, đào sâu hiện thực đời sống theo phương pháp “phát triển chiều sâu” (mượn một khái niệm của kinh tế học). Nhưng đọc truyện ngắn 2013, và truyện ngắn đương đại nói chung, tôi vẫn cứ thấy thiếu vắng cái mà Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh “Chúng ta phấn đấu sao cho trong mỗi truyện ngắn của ta có một con ma trong đó, ẩn hiện, ẩn hiện. Nó chỉ hiện ra trước mắt người tinh đời” (Nguyễn Minh Châu - Di cảo, Nxb. Hà Nội, 2009, tr.361). Chúng tôi nhấn mạnh cụm từ “một con ma” trong ý kiến của nhà văn. Ý này về sau Nguyễn Quang Lập có nhắc lại trong bài Tôi bắt đầu viết truyện ngắn như thế nào: “Truyện ngắn như một con gì đó rất kì khôi ở trong rừng văn học, mày cứ liều mạng chịu vào rừng tìm kiếm, thế nào cũng có ngày thấy. Chỉ có mày thôi nhé, không thằng nào thấy đâu. Hoặc giả chúng có thấy cũng thấy khác mày”. Đây là lời nhà văn đàn anh Xuân Đức “giáo huấn” cho Nguyễn Quang Lập (Bạn Văn - Nxb. Trẻ, 2011, tr.191). Cũng không có gì khó hiểu theo cách diễn đạt của Nguyễn Minh Châu. Có thể hiểu “một con ma” là tính chất mới lạ, thậm chí kì lạ của người và việc trong câu chuyện được kể. Và cũng là cái tài biến hóa của nhà văn khi viết truyện ngắn, nhiều khi phải như ảo thuật gia, như nhà chiêm tinh, thậm chí có lúc có thể “lên đồng” bằng câu chữ.
Nếu mạnh dạn nhận xét thì truyện ngắn hôm nay nói chung của ta đúng là “lành” nhưng chưa “mạnh” nếu so với thời kì hoàng kim những năm 80 - 90 thế kỉ XX (kiểu như Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Gió dại của Bảo Ninh, Họ đã trở thành đàn ông của Phạm Ngọc Tiến, Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, Bức thư gửi Mẹ Âu Cơ của Y Ban, Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo, Tiếng vạc sành của Phạm Trung Khâu…). Tôi và nhiều độc giả vẫn riêng thích lối viết “kỳ ảo” kiểu như Bến trần gian của Lưu Sơn Minh từng được giải thưởng (Giải Ba) Cuộc thi truyện ngắn 1992 -1994 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nói truyện ngắn của ta hiện chưa “mạnh” có lẽ một phần còn do nó quá “nệ thực” chăng?
Tin vào truyện ngắn
Có nhiều cơ sở để tin vào triển vọng của truyện ngắn. Vì sao? Trước hết là vì cái nền truyện ngắn dân tộc có bề dày truyền thống và nhiều thành tựu, xứng đáng là thể loại cùng với thơ tạo nên “hồn cốt” văn chương dân tộc. Trong quá khứ chúng ta đã có những tác gia truyện ngắn tài danh (riêng chúng tôi nghĩ không hề kém cạnh các nhà cổ điển thế giới) như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam. Trong văn chương đương đại chúng ta có các tác giả truyện ngắn nổi tiếng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê. Trong thế hệ trẻ có người thành danh nhờ truyện ngắn như Nguyễn Ngọc Tư. Trong tương lai truyện ngắn cũng có thể coi là “của để dành” của văn chương dân tộc.
Truyền thống văn hóa cũng giúp chúng ta cắt nghĩa được cái “gu” thẩm mĩ của người sáng tác cũng như công chúng nghệ thuật - hướng tới cái đẹp là cái xinh xắn, “vừa khoảng”. Sự phát triển mạnh mẽ của báo chí (cho đến nay cả nước có 812 báo chí in, 1084 ấn phẩm, trong đó có 80 cơ quan báo chí văn học nghệ thuật) cũng chính là môi trường văn hóa giúp truyện ngắn dễ dàng “sinh sôi nẩy nở” (chẳng hạn một tờ báo có vẻ rất xa lạ với văn chương như tờ Kinh tế & Đô thị của Hà Nội, thỉnh thoảng có đăng một truyện ngắn hay).
Quỹ thời gian nhàn rỗi của con người thời đại đang bị co rút dần. Họ buộc phải lựa chọn các sản phẩm tiêu dùng phù hợp (kể cả sản phẩm văn hóa nghệ thuật). Truyện ngắn, vì thế có thể là một sự lựa chọn của độc giả thời nay. Phải chăng cái gì tồn tại là cái hợp lí!? Người Việt Nam vốn được coi là khéo tay trong chế tác các sản phẩm mỹ nghệ, ở đó đòi hỏi sự tinh xảo. Nếu có một so sánh, tuy khập khiễng, thì truyện ngắn đòi hỏi sự tinh xảo khi viết cũng giống như nghệ nhân chế tác các tác phẩm nghệ thuật.
Không thể đo đếm sự phát triển của văn chương nói chung, truyện ngắn nói riêng, bằng đơn vị thời gian một năm. Vì ở đó có thể là nốt trầm hoặc thăng, có thể là ngẫu nhiên hay tất nhiên, có thể phản ánh quy luật nhưng cũng có thể là hiện tượng phong phú hơn quy luật. Một cái nhìn ngắn hạn có thể làm sai lệch các nhận định về hướng phát triển của sự vật. Nhưng trong một chừng mực nào đó, cái “lát cắt” của sự vật có thể giúp ta nhìn rõ xu thế của nó. Một năm chưa thể “tính sổ” đầy đủ và công bằng với cả nền văn chương nước nhà nói chung, với truyện ngắn nói riêng, nhưng nhìn gần là để giúp nhìn xa và ngược lại. Tin vào truyện ngắn là tin vào quá khứ, nội lực, hướng đi của nó. Từ đó nhìn thấy tương lai của thể loại “nhỏ”. Riêng chúng tôi, đã lạc quan nhìn thấy từ lâu chân trời của truyện ngắn.
Hà Nội, 10/2013
B.V.T
(SH298/12-13)
MAI VĂN HOAN Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.
HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.
NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).
ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.
HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.
LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.
HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.
HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.
VĂN CẦM HẢI (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".
TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.
NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.