GS Ngô Đức Thịnh cho rằng đạo Mẫu có những vị thánh được “dệt” từ anh hùng trong lịch sử. Bằng cách đó, đạo Mẫu cũng thể hiện chủ nghĩa yêu nước.
Hầu Đức Thánh Trần - Ảnh: Ngữ Thiên
Một trong những giá trị lớn của đạo Mẫu, theo GS Ngô Đức Thịnh, Ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia, là thể hiện rất rõ ý thức lịch sử và ý thức xã hội của mình. Điều đó thể hiện ở chỗ trong điện thần của đạo Mẫu, hầu hết các vị thánh đã được lịch sử hóa, tức là đều hóa thân thành những con người có danh tiếng, công trạng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cũng có cả những nhân vật trong lịch sử hóa thân thành các vị thánh như Trần Hưng Đạo hóa thành Đức Thánh Trần, Nguyễn Xí thành Ông Hoàng Mười, Lê Văn Duyệt thành vị quan có khả năng trừ tà ma…
Có thể thấy việc “dệt” (chữ dùng của GS Ngô Đức Thịnh) một nhân vật lịch sử thành một vị thánh của đạo Mẫu và ngược lại trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn, ông Thịnh cho biết, ông Hoàng Đệ Nhất là một danh tướng của Lê Lợi. Ông Hoàng Lục lại là tướng Trần Lựu có công chống giặc Minh. Ông Hoàng Bảy là quan triều đình trấn giữ vùng Lào Cai, Yên Bái. Ông Hoàng Mười lại là tướng Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời vua Lê Thái Tổ.
Những câu chuyện chuyển hóa nhân vật này thường được kể rất đẹp đẽ. Chẳng hạn, Nguyễn Xí có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh, cũng chính là quê mình. Ông được coi là đã chăm sóc cho người dân rất mực. Câu chuyện lịch sử là vậy. Khi trở thành truyền thuyết về ông Hoàng Mười, chuyện kể lúc ông mất, mọi người đang cử hành tang lễ thì trời quang đãng, thi thể ông hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ. Khi di quan, trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Gọi là ông Hoàng Mười, không chỉ vì thứ tự, mà còn vì ông đánh giặc giỏi mà văn cũng tài. Ông Hoàng Mười cũng được mô tả như một người văn hay, chữ tốt, giao du rộng và đa tình.
Theo GS Ngô Đức Thịnh, các ông Hoàng trong đạo Mẫu thường đều là con trai Long Thần. Mặc dù vậy, theo khuynh hướng địa phương hóa thì các ông đều gắn với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian, những danh tướng có công dẹp giặc, những người khai sáng, mở mang cho đất nước. Cũng do xu hướng địa phương hóa này mà có một số sai biệt trong điện thần và thờ cúng giữa đền Mẫu ở Nam bộ so với Bắc bộ, vì có thêm các vị thánh địa phương. Chẳng hạn, Lê Văn Duyệt được coi là một vị thánh hàng Quan, có vai trò trừ ma tà như Quan Tuần, Đức Thánh Trần ngoài Bắc.
Chính việc các vị thánh có “lý lịch nhập thế” với công lao gắn liền với lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc đã tạo cho đạo Mẫu thành một biểu tượng của lòng yêu nước mang đầy tính tâm linh. Cũng vì thế các vị thánh đó đều là các phúc thần, có thể xua đuổi tà ma, mang lại tài lộc sức khỏe cho con người.
Trần Hưng Đạo - Vị nhân thần nổi tiếng nhất
GS Ngô Đức Thịnh nói, vị thần có nguồn gốc anh hùng lịch sử nổi tiếng nhất, có vị trí cao nhất trong đạo Mẫu chính là Đức Thánh Trần - Trần Hưng Đạo. Phủ của ông (Phủ Trần Triều) là một phủ thuần túy mang tính chất nhân thần. Vị nam thần này thường được quy về dòng Long Vương Bát Hải Đại Vương.
Về hàng bậc, có lúc ông được đồng nhất với Vua Cha trong đối sánh với Thần Mẹ. Ngày giỗ và lễ hội kèm theo của ông cũng đồng nhất với ngày giỗ cha “tháng tám giỗ cha” cùng với Bát Hải Đại Vương. Nơi thờ ông ở Kiếp Bạc, có hai ngọn núi xòe rộng ra ôm lấy thung lũng trước mặt ngôi đền là núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Như vậy, trong tâm thức dân gian, nghiễm nhiên ông được coi như là Ngọc Hoàng, một Vua Cha cao hơn, trên cả Thánh Mẫu.
Tuy nhiên, theo GS Ngô Đức Thịnh, nếu các vị Vua Cha khác không giáng đồng, thì Đức Thánh Trần lại giáng đồng chuyên để trừ ma tà, cứu chữa con bệnh. Do đó, nó tạo nên hẳn một dòng lên đồng - Thanh đồng. Trong thứ tự giáng đồng của những người có căn Trần Triều thì thường sau khi Mẫu giáng, và trước các vị Thánh hàng Quan.
GS Trần Quốc Vượng đưa ý kiến trong cuốn Đạo Mẫu ở VN, thời nhà Trần, bên cạnh Phật giáo thì Đạo giáo khá thịnh hành. Nhiều người thuộc giới quý tộc, hoàng thân cũng là những đạo sĩ, tín đồ Đạo giáo, trong đó có Trần Hưng Đạo. Từ sau khi chiến thắng giặc Nguyên - Mông, được phong vương, ông quay trở về sống ở Kiếp Bạc, vui thú với cảnh sắc thiên nhiên, làm thuốc chữa bệnh cứu người. Huyền thoại về việc ông dùng ma thuật để trừ tà Phạm Nhan chỉ là sự lịch sử hóa, huyền thoại hóa một thực tế ông là thầy thuốc có tài chữa bệnh. Bởi vậy, sau khi Trần Hưng Đạo qua đời, danh tiếng và uy tín của ông đã được huyền thoại hóa, khoác ra ngoài cái vỏ tín ngưỡng và lưu truyền mãi về sau, cho tận tới ngày nay.
Theo GS Thịnh, việc Trần Hưng Đạo trở thành một vị thánh trong điện thần Tứ phủ, thậm chí còn đồng nhất ông với Vua Cha trong đối sánh với Thánh Mẫu, cũng không khó hiểu. “Với tư cách là một vị tướng, một đạo sĩ của Đạo giáo, vốn gốc dòng họ gắn với miền sông nước vùng hạ lưu, lại lập những chiến công thủy chiến vang dội, ông dễ dàng được gắn thêm chiếc áo thần linh, quy về dòng thủy thần Long Vương, được thờ phụng cùng với Bát Hải Đại Vương, vị thần chuyên coi vùng sông nước và biển cả”, ông Thịnh phân tích.
Theo Trinh Nguyễn - TNO
PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.
LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.
LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.
NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...
HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.
BEATRICE KALDUN (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.
PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.
PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN MỄ (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.
NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)
NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.
TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.
PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...
BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.