Tìm nghĩa vài tên làng quê xứ Huế

15:11 05/02/2009
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

Đình làng Chuồn

Thuở nhỏ má từng ru: “Núi Truồi ai đắp nên cao...”. Truồi là một vùng đất phía nam Huế, nơi đó từng nổi tiếng sản vật chè. Chè Truồi, Truồi không phải từ Hán, trong từ vựng Việt nó không có ý nghĩa. Tôi đã dò tìm trong từ điển Chăm-Việt không thấy có từ tương tự, may quá trong tiếng của người Pa-cô, một cư dân thượng du vùng Huế, nay họ cư ngụ trên dãy Trường Sơn, họ có từ a-truôi, nghĩa là con gà. Tôi ngờ rằng dưới chân núi Bạch Mã hẳn có nhiều tiếng gà rừng, gà gô, gà lôi, trĩ... Rồi vùng đất ấy xưa đã có tên là làng Gà.

Trong bài “Bình Trị Thiên khói lửa” cố nhạc sỹ Nguyễn Văn Thương có nhắc: “Ai từng vô sông Hương, từng nương Linh Mụ, từng ngụ Đập Đá, Văn Xá, Truồi, Nong”. Làng Văn Xá, là làng của nhà họ Văn xưa. Cũng như Mai Xá, Ngô Xá, Hồ Xá, Lê Xá, Phan Xá... đều lấy tên họ một nhà nào đó để đặt. Hiện tượng này rất hay cũng nên nghiên cứu. Truồi đã nói. Còn Nong là thế nào. Làng này từng có tên chữ là An Nông nghĩa là một vùng nghề nông an bình. Tôi đồ rằng đó là dịch ngược. Người xưa diễn dịch một cái tên làng dân giã thành tên chữ nghĩa. Tôi đã thử tìm xem ở làng đó có nghề truyền thống đan nong, nia là những dụng cụ của nông hay không. Người xưa vẫn từng lấy tên một sản phẩm đặc biệt để đặt cho tên vùng đất quê hương. Ngoài Bắc từng có tên làng Cót, làng Mẹt, trong lại có tên Vườn Trầu, Vườn Chuối... Nhưng ở làng Nong không có nghề đan nong. Lần tìm dấu vết trong tiếng Pa-cô thấy có tiếng Tnoong, nghĩa là cái cót thóc, cái vựa, cái lẫm đựng thóc. Phải chăng đây là vùng quê xưa mà nghề trồng lúa rất phát đạt. Một làng Nong gần làng Truồi, nghĩa là cạnh làng lúa có làng gà. Những ước mơ về sự no đủ của người xưa có thể được ngụ ý vào tên làng xóm, còn gây cho con cháu ngày nay những suy tư cảm động.

Đi ra phía ngoài chúng ta gặp làng Sịa. Chợ Sịa nổi tiếng mà ở đây bánh tráng cũng là một sản vật đặc sắc: bánh tráng Sịa. Nhưng Sịa nghĩa là gì, tôi cũng suy đoán rằng do tiếng Pa-cô, Tà Ôi, là Si-á mà chuyển thành. Si-á nghĩa là cá. Bên cạnh một đầm phá nước lợ giàu tôm cá lừng danh mà có một làng tên là làng cá thì hợp lẽ quá. Si-á, Sia, có biết bao làng cá được đặt tên là Như Hải, là Ngư Thuỷ đó rồi. Khác nhau là ở chỗ một bên thì đặt tên bằng chữ Hán Việt, một bên thì giữ lại tên gọi của một tộc người anh em chừng đã có mặt lâu đời trước khi người Kinh-Việt đến.
Nếu xuống thuyền ở Sịa, lênh đênh trên đầm phá đi ngược vô Nam, ta sẽ đến một vùng trời nước mênh mang-Ngã Ba Sình, mà câu hò dân gian đã làm cho nó trở nên thân thuộc và nổi tiếng:
Đò từ Đông Ba, đò qua Đập đá
Thẳng về Vĩ Dạ xuôi Ngã Ba Sình
Lờ mờ bóng ngả trăng chênh
Tiếng hò xa vọng mối tình nước non”.

Sình trong tiếng Việt có hai nghĩa. Một là sình lầy, hai là trương phình lên (cơm sình, trâu chết sình...) nhưng ông bà ta sao lại dùng chữ nghĩa xấu xí để diễn đạt tên làng quê. Với lại ở vùng ấy dấu hiệu địa mạo cũng không chỉ ra là vùng sình lầy để có thể lấy đặc điểm địa lý mà đặt tên. Lại dò tìm trong tiếng Tà-Ôi, Pa -cô Vân Kiều, có tiếng Tềnh có nghĩa là đánh nhau. Làng Sình nổi danh là làng vật võ. Đã trở thành phong tục hàng năm cứ đến mồng 3 Tết là làng mở hội vật. Lò vật làng Sình rất tiêu biểu. Nhưng Tềnh có thể biến âm, biến thanh đổi thành Sình được chăng. Tiếng Việt có quy luật biến thanh từ T sang S, như dân ta vẫn nói tụt xuống-sụt xuống, tuột lúa-suốt lúa...
Còn chuyển ênh thành inh cũng được. Như người ta vẫn nói thênh thang - thinh thang, bệnh-bịnh, lệnh-lịnh... Một làng nổi danh thượng võ, ngày xưa có tên là làng Vật, có lý lắm chứ.

Ôi những làng quê của xứ Huế giàu có về sản vật phong phú về tinh thần thượng võ, đẹp đẽ về phong tục tập quán. Cái đẹp đẽ ẩn dấu kín đáo biết bao nhiêu. Thành ra khi đoán được ta càng thêm mến, thêm yêu, càng thấy sâu dày cái công ơn của những lớp tiền nhân đã đến đây khai phá mở đất và gởi gắm lại đó chút dấu ấn văn hoá khiêm nhường khiến ta dễ vô tình quên lãng.
            N.K.M

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CHÂU THU HÀ

    Trong những năm qua, xây dựng văn hóa doanh nghiệp (VHDN) đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng quan tâm thực hiện.

  • PHƯỚC VĨNH

    Nói đến những tiềm năng phát triển của Huế là nói đến các yếu tố thiên nhiên, lịch sử văn hóa, trong đó có yếu tố sông, núi, cỏ cây và con người; là nhắc đến những bài thơ sâu lắng, những giai điệu mượt mà…

  • LGT: Cuốn sách Florette ou la rivière des parfums của tác giả T. Trilby(*) được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chuyện bên dòng sông Hương(**). Bối cảnh câu chuyện xảy ra ở Huế và vùng phụ cận vào thập niên 1920 của thế kỷ XX.

  • PHAN THUẬN AN

    Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.

  • PHAN TÂN

    Trong năm 2018 vừa qua, ngoài kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh cũng đã triển khai những chương trình đột phá, công trình trọng điểm, tập trung lãnh đạo, tạo tiền đề, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng nhanh, bền vững. Các chương trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương…

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG - NGUYỄN VĂN KHÁNH

    Trong chuyến đi điền dã khảo sát di tích tại khu vực Phường Thủy Xuân, TP Huế. Chúng tôi tình cờ phát hiện một di chỉ cổ nằm lẫn khuất trong những tán cây rậm rạp trên vườn đồi của làng Dương Xuân thượng trước đây. Vạch lá dò dẫm tìm vào, chúng tôi mới nhận ra nơi mình đặt chân đến chính là một Văn Miếu, nơi thờ phụng vị Thánh về Văn, người mà được hậu thế tôn vinh là Vạn thế Sư biểu (người thầy của muôn đời), Đức Khổng Tử. Ngôi miếu nằm lọt thỏm trong những tán lá, bụi cây. 

  • HỒ VĨNH

    Đại bác là một từ dùng chung cho tất cả các loại trọng pháo hay súng lớn. Tiền thân của chúng là những máy ném đá (Thạch pháo) ra đời cách đây 1.000 năm. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã xuất hiện các loại pháo bằng đồng và pháo bằng sắt mà ngày nay chúng ta thường gọi là súng thần công.

  • KIM THOA

    Chè bán ban ngày, ban đêm. Chè gánh, chè xách, chè ăn trên bờ, chè thưởng thức dưới đò. Huế bán đủ thứ chè, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, nhưng ít thấy chè hột sen.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Hoàng tử Cảnh (1780 -1801) là con trưởng của vua Gia Long. Trong thời gian chống nhà Tây Sơn, hoàng tử Cảnh đã theo Bá-đa-lộc sang Pháp cầu viện cho họ Nguyễn. Hoàng tử Cảnh theo Thiên chúa giáo và được giám mục Bá-đa-lộc rất thương yêu.

  • THƠM QUANG - THANH BIÊN

    Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.

  • NGUYỄN THÁI SƠN*     

    Đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908 - 1939) là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.

  • TRẦN ĐÌNH HẰNG - LÊ ĐÌNH HÙNG  

    Trải qua nhiều vấn nạn của thiên tai, địch họa mà đến nay, tài liệu nghiên cứu về thời chúa Nguyễn Đàng Trong rất hiếm hoi. Vì vậy, tài liệu lưu trữ từ gia tộc sẽ góp phần thiết thực để soi rọi một số chi tiết bổ sung cho chính sử.

  • LÊ VĂN LÂN

    Huế là đô thị không chỉ trong nước mà cả thế giới tôn vinh với nhiều danh hiệu cao quý. Nhưng đứng trước những danh hiệu này, bản thân người Huế cũng thấy đang còn nhiều khoảng cách lớn.

  • LÊ QUANG THÁI

    Ngày xuân còn dài, xin kể vài mẫu chuyện dê tiêu biểu trên đất kinh kỳ văn vật cốt chỉ mua vui chốc lát trong hương vị của ngày Tết cổ truyền.

  • PHAN THUẬN AN

    Cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã lập ra tại kinh đô một cơ quan chuyên trách về y tế, gọi là Thái Y Viện, để chăm lo sức khỏe cho hoàng gia và điều hành công việc chữa bệnh cho mọi người trong nước.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Đồi Dương Xuân ở nam sông Kim Trà (sông Hương) từng có phủ Dương Xuân là mặc định nhưng vì đồi lại lớn rộng, có nhiều phần nhấp nhô theo phương thẳng đứng, uốn éo theo bình đồ nên đồi có nhiều gò, cồn. 

  • TRẦN ANH SƠN

    Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.

  • CAO CHÍ HẢI  

    Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.