Tìm lại vế đối của sư phụ Hoàng đế Quang Trung

11:13 23/04/2008
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

Ông bôn ba đi tìm đồng chí; trên nửa đời người lao đao lận đận, vừa về đến nhà kịp thấy người anh họ Trương Văn Hạnh bị ám sát. Ông vội vã đưa vợ con xuống thuyền và ngửa mặt chỉ mảnh trăng thề nguyền rằng: “Không đạt sở nguyện sẽ vĩnh biệt đất Huế thân thương”. Ông đến Vạn Gò Bồi (Tuy Phước, Bình Đinh) nương náu.
Sau ông nghe lời người bạn sơ giao có chí lớn ở đất Tây Sơn khuyên lên An Thái (An Nhơn Bình Định) mở trường dạy học. Ngày khai giảng, ông Biện Nhạc đưa hai em Huệ - Lữ đến nhập môn. Lớp học không đông, chỉ hơn vài mươi người thọ giáo. Riêng trò Huệ, có khí phách khác thường; từ dáng đi, tiếng nói và học đâu thông đó, chẳng những tiếp thu xuất sắc bài giảng mà còn hỏi vặn lại những điều xưa nay chưa ai đề cập đến. Trước mặt thầy, một kỳ nhân đã xuất hiện mà bấy lâu thầy đau đáu trông tìm. Nay thầy nguyện trao hết văn tài võ chí cho cậu thiếu niên kiệt xuất này.
Tương truyền rằng: Lúc bấy giờ ở An Thái đang khởi công xây dựng ngôi dền Quan Thánh. Để tạo thêm danh giá, các bô lão đến xin thầy giáo Hiến đôi câu đối thờ. Thầy giáo những muốn học trò mình hãy giương cao khí tiết, đức độ như Quan Công mà hậu thế đã tôn lên bậc thánh. Do đó, thầy đặt câu đối thờ mà như uỷ thác lòng mình cho trò nhỏ: Nguyễn Huệ. Ngót hai trăm năm, câu đối ấy chứng kiến bao cuộc tang tóc dâu bể và cũng dầm mình trong khói hương ra chiều linh ứng.
Đến thời kỳ kháng chiến chín năm (1945 - 1954), giặc Pháp ném bom thị tứ An Thái nhiều lần, làm cho nhà cửa, ruộng vườn tan hoang, chùa chiền, đền miếu đổ nát; dân địa phương phải tản cư về vùng nông thôn hẻo lánh tạm sống qua ngày. Hoà bình lập lại, bà con quay về xây dựng quê hương; trong đó có trùng tu ngôi đền Quan Thánh. Chợt phát hiện vế mái câu đối bị hố bom bứng đi mất. Dân làng sững sờ, không ai nhớ được. Các bô lão phải nhờ thầy Tàu Sáu đặt lại vế mái để vá vào vế trống đã có từ xưa. Thầy Tàu Sáu dù hay chữ, nhưng xét mình không thể làm nổi một vế mái ngang tầm với vế trống mà xưa nay câu đối đã liệt vào hàng kiệt xuất văn chương ở hầu hết các đền thờ Quan Thánh.
Ngày đêm thầy Tàu Sáu cứ tẩn mẩn tê mê, nhẩm đi đọc lại về trống mà truyền thuyết bảo rằng của cụ Giáo Hiến là sư phụ Hoàng đế Quang Trung:
- SANH BỒ CHÂU, SỰ DỰ CHÂU, CHIẾN TỪ CHÂU THỦ KINH CHÂU. VẠN CỔ THẦN CHÂU DUY HỮU NHẤT;
Thầy Tàu Sáu tự nguyện ăn chay nằm đất ba ngọ. Đêm đêm ông nằm trước bệ thờ Quan Công còn xây dựng dang dở. Đến canh tư đêm cuối cùng, trong khói trầm nghi ngút và ánh trăng hạ tuần hoà quyện với đôi ngọn đèn bạch lạp dọi lên khung cảnh khi tỏ khi mờ, chợt vẳng lại một giọng ngâm trầm hùng bay bay theo làn gió, với câu đối lung linh huyền ảo thật tuyệt vời...
Thế là vế mái câu đối của tiền nhân được tiên nhân vá lại một cách tuyệt hảo:
- HUYNH HUYỀN ĐỨC, ĐÊ DỰC ĐỨC, PHÓNG MẠNH ĐỨC, CẦM BÀNG ĐỨC.
THIÊN THU THÁNH ĐỨC QUÁN VÔ SONG.


QUỐC THÀNH
(nguồn: TCSH số 144 - 02 - 2001)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...

  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH