Tìm hiểu phong cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua một bài thơ

10:07 11/06/2015

PHAN NGỌC

Giàu (,) ba bữa, khó (,) hai niêu,
Yên phận (,) thì hơn hết mọi điều
Khát, uống chè mai: hơi (,) ngọt ngọt;
Sốt, kề hiên nguyệt: gió (,) hiu hiu.
Giang sơn tám bức, là tranh vẽ;
Phong cảnh tứ mùa, ấy gấm thêu
Thong thả: hôm (,) khuya nằm, sớm thức,
Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.

Ảnh: internet

1. Đây là bài thứ 3 trong số 161 bài thơ nôm của quyển Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (NXB Văn Học, Hà Nội 1983). Bài này được chọn vì xưa nay ai cũng cho là của tác giả. Việc khảo sát một tác giả xưa về bất kỳ mặt nào cũng chỉ nên bó hẹp vào một số bài rất ít gọi là tư liệu tối thiểu, và chỉ phân tích, mô hình hóa trong phạm vi ấy thôi. Khi ta đã nắm được cái tập hợp các kiểu lựa chọn tiêu biểu cho tác giả, ta sẽ dùng nó kiểm tra lại các bài còn lại để đoán định những bài còn ngờ vực và nếu cần, để sửa lại cách công thức hóa. Nói chung, các kiểu lựa chọn này sẽ lặp lại gần như nguyên vẹn ở mọi bài. Tôi giữ nguyên cách phiên, chỉ chấm câu lại cho gần cách chấm câu người xưa hơn. Chỗ nào không thể chuyển thành cách chấm câu hiện đại tôi để trong ngoặc đơn. Ta sẽ thấy chính cách chấm câu này mới sát với nghệ thuật tác giả.

2. Bài thơ là một thông báo. Phong cách thay đổi theo người nhận thông báo. Khi người nhận thông báo là độc giả mua hàng hóa, phong cách sẽ chịu ảnh hưởng của thị hiếu và thay đổi khá nhanh như dưới thời Pháp thuộc. Thời ông, thơ văn không phải hàng hóa, nên phong cách tác giả thường giữ nguyên suốt đời. Nó là triều đình thì tác phẩm sẽ mang tính tán dương, nó là bạn bè thì tác phẩm sẽ mang tính thù tạc của sinh hoạt nho sĩ, nó là bình dân thì tác phẩm sẽ có màu sắc phê phán. Các nhà thơ như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, làm thơ theo từng sự việc của đời mình. Riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm không nhằm một đối tượng cụ thể nào. Trong số 161 bài thơ nôm của tuyển tập, 144 bài không có đề mục, những bài còn lại đều là những lời khuyên về đạo đức. Trong số 89 bài thơ chữ Hán chỉ có 13 bài thơ chủ đề cụ thể kể lại việc làm khi hành quân theo nhà Mạc hay thù tạc với bạn bè, còn nữa cũng là thơ vô đề. Độc giả của ông là toàn bộ hậu thế, nhân dân Việt Nam, kẻ mà ông tin là sẽ hiểu ông, sẽ thể tất cho một cuộc sống bất đắc dĩ của ông. Ông không thể phát huy mặt năng động chủ quan để cứu đời, cứu dân. Ông sống trong một thời nội chiến, làm người chứng kiến bất lực một xã hội đang tan rã mà hình ảnh cụ thể đã được Nguyễn Dư miêu tả trong Truyền kỳ mạn lục. Ông chỉ còn cách tự cứu lấy lương tâm của mình. Chính vì vậy con người đỗ trạng nguyên, làm quan to, được họ Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn sùng bái, đã từ bỏ giàu sang, danh lợi, quay về với làng xã "lấy cảnh núi sông non nước làm vui" (tựa tập thơ Am Bạch Vân).

Ông là một ẩn sĩ nhưng không phải một ẩn sĩ Ấn Độ chạy vào núi sống để thờ thần linh, không phải một ẩn sĩ Trung Quốc quay lưng với chính trị, tự thổi phồng mình, tự tôn thờ mình. Thơ ông chẳng có gì là huênh hoang của thơ triết lý Trung Quốc. Ông quay về sống trong vòng tay của làng mạc họ hàng, dạy học trò, bình dị, khiêm tốn, như cha ông chúng ta.

3. Một bài thơ thường có một tổ chức rất chặt nên khó lòng lấy một câu ở bài này để lắp vào một bài khác. Nghệ thuật của ông trái lại mang tính lắp ghép. Ông có một số mô típ lặp đi lặp lại với đôi chút thay đổi để tạo nên mọi bài thơ. Đi con đường ấy, diện mạo từng bài không rõ, không thể mang một đề mục riêng không tìm thấy ở một bài khác. Nhưng phong cách tác giả cũng không vì thế mà kém hiển nhiên,

Nếu ta thử tìm các mô típ trong số 80 bài thơ đầu là những bài không hề bị ngờ vực về mặt tác giả thì sẽ thấy bài này là sự lắp ghép của 6 mô típ.

Câu 1: Giàu (,) ba bữa; khó (,) hai niêu, tức là ta phải vui với cái nghèo. Người giàu kẻ nghèo thực tế không hơn nhau mấy.

Câu 2: Yên phận (,) thì hơn hết mọi điều. Tức là con người phải bằng lòng với số phận mình.

Câu 3-4: Khát, uống chè mai: hơi (,) ngọt ngọt;
Sốt, kề hiên nguyệt: gió (,) hiu hiu. Cuộc sống giản dị tự nó đã là hạnh phúc.

Câu 5-6: Giang sơn tám bức, là tranh vẽ;
Phong cảnh tứ mùa, ấy gấm thêu. Tức là hãy tìm cái vui ở thiên nhiên, một thiên nhiên gần gũi ở ngay cạnh mình, không phải trốn đời mới thưởng thức được.

Câu 7: Thong thả: hôm (,) khuya nằm, sớm thức. Tức là mình là công dân có bổn phận với đất nước. Mô típ này khẳng định dứt khoát tác giả không theo Lão Trang.

4. Nếu ta tìm hiểu tư tưởng tác giả qua tần số xuất hiện các câu thơ làm thành những mô típ thì tư tưởng ấy như sau:

Con người phải am hiểu lẽ thịnh suy, thăng giáng của tạo vật (54) để qua đó tìm lẽ sống, xuất hay xử cho hợp với mệnh trời (26). Là người dân, tôi có bổn phận với dân với nước (14), nhưng trong tình thế hiện nay khi cái xấu đã thắng, dù tôi có muốn xông ra bảo vệ chính nghĩa cũng không làm được (51). Tôi chỉ còn một cách là: từ bỏ danh lợi (57) để giữ lấy lương tâm, nhân cách mình (15), vui với đạo lý thánh hiền (24), vâng theo tình nghĩa làng xóm (29). Phải bằng lòng với cái nghèo (24), tránh tranh đua để giữ tấm lòng thanh thản (32), sống giản dị như bà con thôn xóm (25), tìm nguồn vui ở một thiên nhiên gần gũi, ngay cạnh mình (59), an hưởng phận mình (35).

Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế. Con người lỗi lạc về lý học đến mức sứ thần Trung Quốc là Chu Xán phải phục chẳng hề nhắc đến một thuật ngữ lý học: tính, khí, ly, tâm... Nhân vật mà truyền thuyết nâng lên địa vị một tiên tri, biết trước hậu thể năm trăm năm chẳng hề nói bóng gió gì đến hậu vận. Ông trạng nguyên hay chữ nhất nước chẳng thiết gì đến chữ nghĩa, điển tích từ chương. Con người được cả thời đại tôn sùng chẳng buồn nhắc tới danh tiếng của mình. Thậm chí ông không nhắc đến cá nhân mình. Đây là một phong cách lạ, trước ông không có mà sau ông cũng không. Nhưng ông hiểu được cái bí quyết để giành được lòng tin của hậu thế. Phải gạt bỏ mọi "bánh vẽ" của cuộc đời (công danh, chức tước, chữ nghĩa, trang tức) để xuất hiện giản dị và chân thành. Không rên la, thậm chí không thở dài, không đóng vai một người thuyết phục, giáo dục. Hãy quên cái con người của cương vị xã hội (bằng tôi, nhà sư, nho sĩ...) để làm con người trong lòng mọi người. Chính vì vậy thơ ông lần đầu tiên trong văn học ta nói với mọi người. Nếu muốn nói đến ý nghĩa triết học của thơ ông thì nó là ở đấy.

5. Để đạt đến điều đó, hình thức phải hết sức đạm bạc, câu thơ không nói với giác quan mà nói với cảm nghĩ. Nhịp thơ phải rất chậm để dành chỗ cho sự suy nghĩ. Mọi trang trí, từ chương, điển tích, chữ nghĩa đều phải loại trừ để cho tâm hồn bắt gặp tâm hồn. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt đến trình độ cao nhất của cái giản dị nghệ thuật nhờ những kiểu lựa chọn đặc biệt.

Bài thơ theo thể thơ Đường nhưng lại được xây dựng theo kiểu thơ Tống. Thơ Đường kỵ lối chứng minh bằng suy luận, trái lại - thơ ông là thơ chứng minh. Trong bài này đã có 3 chữ chứng minh: (c.5), thì (c.2), ấy (c.5) là những chữ nhà thơ Đường phải tránh. Nhưng dù là cấu tứ theo kiểu Đường hay kiểu Tống cũng đều trang trọng. Do đó, ông phải phá vỡ sự trang trọng này để đạt đến giản dị tối đa:

a) Câu đầu sáu chữ xây dựng hệt như một tục ngữ.

b) Chữ dùng chủ yếu là chữ đơn tiết thuần Việt chỉ có một chữ láy âm (thong thả) hai chữ điệp âm (ngọt ngọt, hiu hiu). Ngay cả hai từ Hán Việt (giang sơn, phong cảnh) thì cũng đều là những từ ai cũng biết. Chữ trời Nghiêu với nghĩa thời thái bình thịnh trị là rất dễ hiểu. Bài thơ cách ta bốn trăm năm mà đọc như thơ ngày nay. Chỉ có hai từ dùng là lạ đối với người Bắc (sốt với nghĩa nóng bức, hôm là ngày) nhưng đối với các nơi khác thì vẫn quen thuộc.

c) Bốn câu đối nhau xây dựng theo mã của tục ngữ chứ không phải theo mã câu đối Trung Quốc. Nghĩa câu 3-4 là: Khi nào khát, ta uống nước chè nấu bằng gỗ hồng mai (cách uống rất bình dị của nông thôn) ta cảm thấy thú vị vì hơi (vị) nó ngọt ngọt. Khi nào trời bức, ta nằm ở hiên gần ánh trăng, cảm thấy mát vì gió thổi hiu hiu. Nghĩa câu 5-6 là: Núi sông tám hướng tự nó đã đẹp là những bức tranh vẽ mà các nhà quyền quí vẫn treo, phong cảnh bốn mùa thay đổi tự nó đã tươi như gấm thêu rồi (vật quí). Như vậy hạnh phúc là rất gần gũi: nó ở ngay cạnh ta, trong lòng ta. Gốc của cái nhìn này là ở Thiền tông, không phải gốc dân dã, nhưng cái nhìn được xây dựng theo kiến trúc dân dã. Đó là kiến trúc của Ăn-vóc, học-hay, của chồng công vợ tức là kiến trúc vị ngữ - vị ngữ: Nếu ăn thì người có vóc lớn, nếu học sẽ biết. Xét về của tuy là thuộc về chồng nhưng xét về công lại là do vợ.

a) Vì áp dụng kiến trúc tục ngữ nên thơ ông nhịp cắt rất nhiều và câu thơ đọc rất chậm. Ông là nhà thơ mà nhịp thơ chậm nhất. Thông thường, câu thơ Đường chỉ có một nhịp sau chữ thứ tư. Chúng tôi đã chấm câu lại để bạn đọc nắm được cách tổ chức này cho hiển nhiên hơn.

b) Thiên nhiên của ông rất lạt, không có màu. Nó hết sức tĩnh: nếu có một chút vận động (gió hiu hiu) thì mục đích không phải để nêu vận động mà để nêu một sự yên tĩnh cao độ. Nó thường được diễn đạt bằng một từ đơn tiết (gió, mây, núi...) Đặc biệt, con người suốt đời đối diện với biển từ khi ra đời đến khi chết, sống chỉ cách biển vài cây số thế mà trong thơ không nói đến biển. Phát hiện kỳ thú này là của anh Trần Quốc Vượng, lúc mô hình hóa tôi còn bỏ sót yếu tố này. Vì chưa mô hình hóa Nguyễn Trãi (một người hay nói đến biển) để có cơ sở đối lập, có gì đâu: ông tìm sự yên tĩnh, ông ghét đồng tiền, thương nghiệp, thủ công nghiệp, cho nó là nguyên nhân đẻ ra mọi tai họa. Mà biển thì lại gắn liền với hoạt động, với thương nghiệp và thủ công nghiệp là cái mà vào thời đại ông lại phồn thịnh nhất ở ngay quê hương ông. Điều này chứng tỏ thiên nhiên nghệ thuật không phải là thiên nhiên khách quan.

6. Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải loại thơ đọc để nhìn, để nghe. Ông là con người duy nhất của văn học ta chủ trương một đường lối nghệ thuật riêng: nghệ thuật là để giúp con người tìm lại được chính mình, chân thành với mình và với xã hội. Khi nào ta hiểu được nhu cầu ấy, ta sẽ biết ơn phu tử và sẽ hiểu được giá trị của nhà thơ kiệt xuất.

P.N.
(SH35/01&02-89)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.