Tiếp xúc với tác phẩm

11:09 28/11/2011
THÁI BÁ VÂN ĐỜI SỐNG VẬT THỂ VÀ ĐỜI SỐNG HÌNH TƯỢNG

Thái Bá Vân qua nét vẽ của họa sĩ Quang Tỉnh - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thúy của Trần Văn Cn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, lại là sự tồn tại tinh thần, như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thm mĩ.

Nếu tỷ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống
tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.

Và đời sống phong phú, nhân bản và
trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần, Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.

Bà Môna Liza v
t thể là của nước Pháp ; bảo tàng Louvre canh giữ, nhưng bà Môna Liza hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.

Mục đích bao la của tác ph
m nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp thật của mình, để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.

T
rở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 40 X 60, rằng nó được vẽ màu dầu, kiu hội họa bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng g, v.v... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong v.v... thì cũng vậy. Em Thúy mà tôi có thể sờ mó, gửi đi bằng bưu điện hay ch bằng xích lô đó, mới chỉ là em Thúy nguyên vật liệu.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]"Em Thúy" của Hs Trần Văn Cẩn - Ảnh: internet

Là m
t tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn, một đời sống khác, bản chất hơn. Đó là Em Thúy hình tượng.

Hiện
tượng phân hóa này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, cái khả năng trừu tượng hóa của đầu óc con người.

Tôi muốn nói rằng Em Thúy h
ình tượng Em Thúy phi vật thể. Và chính đây mới là Em Thúy tác phm, em Thúy nội dung.

Nội dung của một tác ph
ẩm không phải là cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyên chở.


2- GIÁ TRỊ CHỦ QUAN CỦA TÁC PHM.

Tôi không biết em Thúy thật là a
i cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chun "phản ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mỹ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng không.

Tôi không biế
t em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kỳ quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cn.

Rồi tôi sẵn sàng đ
i chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến" v.v... thì tưởng rằng giá trị thm mỹ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đi, bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.

Dần lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực
một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.

Hiện thực hình tượng
Em Thúy là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cn vào những năm 40 thế kỷ này. Sự ứng xử thm mỹ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh âu hóa nước nhà, phần nhập cuộc, và phần do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.


3- NỘI DUNG CỦA TÁC PHM ĐƯỢC NGƯỜI XEM MỞ RỘNG

Đời sống vật thể của một tác ph
m dĩ nhiên phải đẹp, nhưng không thay đi - bao giờ cũng là một. Em Thúy vật th vn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm ca mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thm mỹ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyn, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tùy thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thúy hình tượng, Em Thúy nội dung sẵn sàng gặp những thăng trầm về giá trị, và được dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.

Vậy cái mà Trần Văn C
n đặt vào tranh, không phải là cố định.

Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác ph
m chính là ở cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người họa sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm xúc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.

Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá mà nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe thì ngọn lửa mới bùng cháy lên. Cái giây ph
út một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một i nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.


4- SỰ TƯƠNG ĐNG NỘI TÂM CỦA TÁC PHM.

Bức tranh chỉ có, khi có người xem.

Giả sử cả đời Em Thúy được cất giấu vào kho, hay
treo trong căn buồng mù tối, không ai qua lại, thì dù được vẽ bởi ai, cách lối gì đi nữa cũng là đồ vật chết, không có hình tượng, không có nội dung, không có đời sống.

Đã vậy không phải bất cứ con mắt nào đi qua tấm vải vẽ đóng khung kia cũng th
ấy Em Thúy cả. Điêu khắc đình làng kia vẫn có đấy, khắp làng quê từ thế kỷ 17, thế mà các học giả thực dân sục sạo của Viện Phương Đông của nước Pháp, đóng ở thuộc địa từ năm 1902, không hề nhìn ra. Và cả chúng ta nữa, sự thật là chỉ mới vài chục năm nay từ khi đồng cảm được với nó, thưởng thức nó, thì chúng ta mới biết rằng có nó, hay nói rằng mới thấy nó, thì cũng là một nghĩa.

Lại không phải bất cứ lúc nào, và trước bất cứ tác phẩm nào, ta cũng rung động, hoan hỷ hay bùi ngùi được. Lại không phải bao giờ chúng ta cũng hiểu hết một tác phẩm. Ta chỉ
gia nhập được vào tác phm, thấm nhuần được ý nghĩa và nội dung của nó, một mức nào đấy, khi ta có sự tương đồng nội tâm (1) với nó. Tương đồng nội tâm là cái mạch điện ngầm, chạy suốt, một cách hồn nhiên, từ tác phm đến người xem. Nó cũng là cái chứng minh thư chính xác và cao quý mà công chúng sẵn sàng cấp cho người nghệ sĩ chân chính gắn mình với vinh, nhục và số phận của con người và nghệ thuật.

Đây cũng là sự ph
ân hóa biện chứng và tự nhiên của mọi xã hội và đồng bào, vượt ra ngoài giới hạn của đẳng cấp: nghề nghiệp, tuổi tác và trình đ văn hóa.


5 - Đ PHÊ BÌNH NGHIÊN CU TÁC PHM.

H
ơn là một người xem bình thường, nhà nghiên cứu và phê bình nghệ thut phải có sự tương đồng nội tâm nhạy bén và toàn điện nhất. Không phải ở mức dị ứng thm mỹ đúng hướng mà đ, mà là ở toàn bộ nhân cách văn hoá ca anh.

Chính cái nhân cách văn hóa buộc anh phải có nghề nghiệp đứng đắn, và nghề đứng đắn sẽ giúp anh vượt kh
i những luật lệ rét cóng trong sách vở, thuần dưỡng được những kinh nghiệm vay mượn của người khác, không tìm cơ hội để đi vào, những đòi hỏi hành chính hoặc đòi hỏi giai thoại đối với tác phm. Chính là do nghề nghiệp tử tế mà anh tránh được lối m xẻ tưởng như khoa học, một cách thô thin: tháo rời từng chi tiết để tiêu tan hết mĩ cảm của tác phẩm.

Cuối cùng, và quan trọng nhất, là để anh phân biệt được đồ thật và đồ giả, cái mà anh dễ bị trượt ngay lớp vỏ vật thể, hào nhoáng hay khúc khuỷu của tác phẩm, trước khi kịp bước vào ngưỡng cửa hình tượng của nó.

Chỉ
bận tâm và dừng việc miêu tả và phân biệt kết cấu vật thể của tác phẩm thì chưa đủ, vì ý nghĩa và nội dung của nó không nằm ở đây. Đó cũng là tình trạng phê bình nghiên cứu trước đại chiến thứ 2 ở Châu Âu và Mỹ.

Bây giờ
chỉ đọc quanh qun lẫn nhau thì không đủ khả năng để làm việc. Có lẽ các nhà nghiên cứu phê bình chúng tôi phải làm quen thực sự, và kỹ lưỡng hơn, với một số tác giả và công trình chuyên ngành trên thế giới mấy chục năm gn đây, cũng giống như các bạn nghệ sĩ đã từ lâu thông thạo tác phm của Picasso, hay Léger, Chagall chẳng hạn.

Một ví dụ, hiện nay đi tìm ý nghĩa tự thân hay nội dung của tác phm là mục đích của tác phm của khoa lịch sử và phê bình, và người ta đang tập họp chung quanh một học thuyết đã hai lần cho là đề tài của Hội nghị quốc tế các nhà lịch sử và phê bình mỹ thuật, một lần vào năm 1964 ở Bon, kỳ họp thứ 21, và một lần nữa, vào 1965 ở Budapest, kỳ họp thứ 22. Đó là học thuyết "Hình tượng học" - Iconologie.

Khi tiếp xúc với tác phẩm, riêng tôi, tôi vẫn đinh ninh rằng, công việc của mình không phải là để nối liền một sự vật trên tác phẩm vào một cái tên gọi - (là "cảnh chèo thuyền" "con rồng", hay "anh thương binh", "cái nhà" v.v…), mà là để nối liền một quan niệm thẩm mỹ vào một hình tượng nghệ thuật.

Hà Nội, ngày 23-1-1986
T.B.V.
(19/6-86)



--------------
1. Trong một bài viết về triển lãm toàn quốc 1980, đăng trên tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, tôi gọi là "sự đồng cảm thẩm mỹ".







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.