Minh họa: Phạm Đại
Ông cuộn tròn chiếc mũ vải rộng vành trong tay ném về phía con ngựa (con ngựa kéo xe của ông đang thản nhiên nhai cỏ) như muốn truyền tin vui đến cho nó. Chiếc mũ nở ra trước gió, bay đến nằm trên lưng con ngựa. - Nào, đi thôi! Tết này ta vui rồi, mày ơi! Ông nói và ra roi vụt nhẹ lên lưng ngựa. Con vật như biết ý chủ, cất cao vó, phóng đi. Những người đi đường nheo mặt thích thú nhìn chiếc xe ngựa băng băng chạy. Bỗng nhiên, ông Năm nghe thấy mùi tanh nồng ở khu chợ cá, giọng những người đàn bà khàn đục léo nhéo gọi tên ông. Ông thắng cương đột ngột. Con ngựa đau đớn, nghẹo đầu, vùng vằng gõ móng. - Ôi… Suýt nữa ta quên họ rồi. Chiếc xe ngựa quay ngược trở lại, đi về hướng chợ thị xã, bánh xe quay chậm, nhịp ngựa đều đều thong thả. Phải, vui quá ngây ngất quá làm ông Năm suýt nữa quên công chuyện thường ngày của mình. Từ xa, ông Năm đã thấy bảy người đàn bà (bảy người khách quen thuộc của ông) tụm lại thành nhóm đứng bên đường. Họ là những người láng giềng của ông. Cũng có thể nói họ cùng sống thanh bần như ông trong một vùng rộng lớn ven biển toàn những người có của cả, có cách hái ra tiền khi mùa cá rộ… Một ngày hai lần, sáng sáng lúc tinh mơ ông đánh xe đưa họ ra chợ, ông sẽ lông bông đâu đó trong thị xã hoặc quay về nhà ngồi đan lưới, rồi độ gần mười giờ, ông đến đón họ về. Bảy người đàn bà và một ông già kết bạn với nhau, thân thiết bên nhau như vậy từ hơn một năm nay. Ông già không còn ai thân thích nên lấy thế làm vui. Nhưng hôm nay, giữa những giờ phút lòng người bồn chồn với năm cùng tháng tận, ông Năm rõ ràng đẹp lão hẳn lên, tươi rói và đôi mắt trông duyên lạ. Cái vẻ khác thường ấy đã làm những người bạn lắm lời của ông vừa xì xào ngạc nhiên, vừa tò mò muốn khám phá. Nên khi mọi người đã vào hết trong xe và khi con ngựa thấp mình trườn tới, thì cái bí mật hạnh phúc riêng tư của ông già lập tức bị khui ra. Thoạt tiên, một người đàn bà lớn tuổi nhất trong bọn họ lên tiếng: - Anh Năm à. Tui biết anh có chuyện vui đó nghen. Ông Năm ném tàn thuốc xuống lòng đường, nói úp mở: - Khà khà… Tết nhứt tới nơi, lòng tui cũng lâng lâng vậy mà. Nhiều tiếng nói ồn ã reo lên: - Không phải! Bác Năm giấu. - Không được. Chị em mình quyết bắt ông nói cho ra mới nghe. Người đàn bà lớn tuổi nhất “suỵt suỵt”: - Có gì vui kể nghe đi anh Năm. Im lặng đột ngột trong xe, chỉ còn tiếng móng ngựa gõ lốc cốc trên đường. Từ trong sự ngưng đọng đó, giọng ông Năm trầm trầm nổi lên: - Nói chớ giấu diếm gì được… Hồi nãy tui vô Tỉnh đội chơi không ngờ gặp được chuyện vui… Ông Năm ngừng nói. Sau lưng ông, những người bạn thường mồm mép tưởng sẽ nhao nhao lên hối thúc, nhưng lạ, họ vẫn không nói gì. Ông Năm biết họ đang ngầm khích lệ ông. Ông đằng hắng liền mấy cái rồi thong thả kể: - Tui đang đi thẩn tha, tính tìm người quen hỏi thăm tình hình chiến sự biên giới, thì ông trung tá Đãi - em họ của tui - từ đâu đằng sau chạy tới ôm chầm lấy người tui. Chú ấy hồ hởi nói với tui vài hôm tới có một đoàn cán bộ quân đội làm nghĩa vụ quốc tế bên K về đây ăn Tết. Toàn là con em của tỉnh mình cả thôi. Duy chỉ có một người trong danh sách thấy lạ hoắc không có gốc gác, họ hàng gì với vùng cực Nam này. Chú Đãi chỉ cho tui thấy cái tên đó trong tờ giấy dài rồi cười cười hỏi có phải con nuôi của tui không. Thật tình là trong hai cuộc kháng chiến, tui có đến gần hai chục đứa con nuôi nên chú ấy mới hỏi vậy. Nhưng từ hòa bình tới giờ, bốn năm rồi, không thấy tin tức đứa nào. Tui nghĩ bụng, chắc là hy sinh hết rồi, hoặc tệ hơn, đứa nào còn sống cũng chẳng còn nhớ đến tui. Tên tuổi, quê quán, tính nết từng người tui nhớ lắm, chị em à… Cho nên, khi đọc thấy cái tên Lê Chiến là tui đã giật mình rồi, tay chân tự nhiên run khan lên. Tui cố bình tĩnh coi kỹ có phải quê Thái Bình không, có phải tuổi hai chín, ba mươi không, thì ôi trời, đúng cả. Đúng cái thằng Lê Chiến Mậu Thân sáu tám rồi! Cái thằng tròn đậm, đen chắc như là đồng đúc… Xe chạy vào con đường mòn đầy sỏi, bụi hồng cuốn lên bay la đà ngang lưng ngựa, thỉnh thoảng bánh xe sa vào một ổ gà, những người khách ngồi trên xe lặng lẽ bám vào nhau. Khác với mọi hôm, khi tới đoạn này, xe càng nghiêng chao, xóc nảy, họ càng huyên náo, như một góc chợ di động. Ông Năm tiếp tục kể, giọng đầy xúc động: - Phải, nó theo một mũi đánh vào khách sạn Thiên Nga hồi Tết Mậu Thân đó. Không biết đánh đấm thế nào mà khi rút lui lại lạc đơn vị. Nó bị tụi cảnh sát dã chiến vây đuổi ráo riết. Vậy là cuối cùng nó lọt vô nhà tui. Cái thằng giỏi! Nó kể rằng khi chuẩn bị vào thị xã cấp trên có dặn nó lỡ không ra được thì tìm đến nhà tui. Nó chủ quan, ngồi nghe có một lỗ tai, cứ say sưa mân mê mấy quả thủ pháo. Thế mà lúc tưởng chết tới nơi nó lại sáng ra, nhớ mồn một số nhà, tên đường, cửa nẻo, cây kiểng ra sao, nó nhớ như in hết. Tui nuôi nó trong nhà có đúng bốn ngày đêm, cũng lo lắng hết mình như bao nhiêu anh em khác thôi, nào ai ngờ… Cái thằng tình cảm hết sức… Hôm bắt được liên lạc, có người đến đưa ra, nó ôm thắt lưng tui, rúc rúc cái đầu khét nắng vào ngực tui, khóc kể sướt mướt. Nó nói hòa bình sẽ về ở luôn với tui, tội nghiệp, nó nói mà nước mắt cứ đầm đìa… Từ đó đến nay đã hơn mười năm, bặt vô âm tín nó. Tui thất vọng, nghĩ đến cái ghê gớm của chiến tranh. Rồi nhiều đêm nằm ngẫm cuộc đời, nhớ đến khuôn mặt từng đứa con nuôi mà thấy thương mình, thương chúng nó quá chừng… Chậc! Ông Năm sực tỉnh, ngồi thẳng lưng lên, vuốt mặt nhìn chăm phía trước. Một tay vung roi, vút vút trong không trung, một tay ông thọc vào túi áo lần lấy gói thuốc rê. Tiếng cười “khà, khà” hào sảng của ông lại rung lên, lẫn vào mỗi câu nói, khi khúc khích, khi nhốn nháo của bảy người đàn bà. - Bao giờ anh ấy về hả bác? - Nội ngày ba mươi tết. Đi bằng máy bay mới ghê chớ. Con ngựa quá quen đường, nó đi nước kiệu khi đến rặng cây lưỡi long đầu làng.
*** Ông Năm dắt ngựa ra khỏi chuồng, buộc vào xe. Ông sẽ chở anh bộ đội Lê Chiến, con nuôi của ông trên chiếc xe này. Chắc anh ta sẽ ngạc nhiên lắm… Trước giải phóng ông có làm nghề này đâu. Hai vợ chồng không con, mở một cửa hiệu tạp hóa trên phố, vừa sinh nhai vừa góp nhặt tiếp tế, nuôi giấu cán bộ, bộ đội. Hòa bình, ông hiến toàn bộ tài sản cho Nhà nước, dành lấy một số tiền vừa đủ mua một căn nhà nhỏ ven biển và một chiếc xe ngựa chở khách. Ông chạy xe, bà ở nhà lo nội trợ. Mức sống của hai vợ chồng so ra còn khá hơn rất nhiều người. Ông biết thế cứ áy náy mãi, ăn không ngon ngủ không yên. Thế rồi hơn một năm nay, sau khi người bạn đời của ông bệnh nặng ra đi, ông tuyên bố: từ nay chiếc xe ngựa của ông chỉ dùng chở bà con xóm giềng. Và vì vậy trong làng, có bảy người đàn bà trở thành những người khách quen thuộc của ông Năm. Ông Năm cho ngựa chạy chậm. Hồi sáng ông có lên sân bay một lần nhưng người ta bảo năm giờ chiều này máy bay mới đến; ông quay về, lại dọn dẹp cửa nhà, lau rửa ly chén. Chiều ba mươi Tết. Đường sá thưa thớt dần. Lâu lâu một bóng dáng vội vã lướt qua mặt ông rồi mất hút. Đường lên sân bay càng vắng vẻ hơn. Ông Năm ngồi trầm ngâm, bập bập điếu thuốc rê trên miệng. Một anh thanh niên từ đâu không rõ chạy ra giữa đường giang tay đón xe, cái vẻ kênh kiệu. Ông Năm khoát tay, giật mạnh dây cương. Đã bảo không chở ai mà. Xe vượt qua anh thanh niên, ông cho chạy chậm lại. Chợt ông Năm nhìn thấy đàng trước, ở lề đường một cô gái đang loay hoay bên chiếc xe đạp. Cô lom khom sửa chữa cái gì đó bị hỏng hóc. Càng đến gần ông Năm càng thấy rõ điệu bộ lúng túng, khổ sở của cô gái. Trên bộ quần áo mới của cô, loáng thoáng có những vết bẩn. Ông Năm dừng ngựa. Cô gái đưa mắt khẩn khoản nhìn ông, mái tóc dài rối bời, mồ hôi lấm tấm trên mặt. - Bác ơi! - Cô gái nói run run, chừng như sắp khóc. Ông Năm nhảy ra khỏi xe. Đến bên cô gái, ông ngồi xuống chồm hổm. - Trời đất! Chỉ có trật giây xích thôi mà nó làm khổ cháu đến thế này à? Mấy phút sau ông Năm đã sửa xong, ông chà chà hai bàn tay vào nhau, nhìn vào mặt cô gái. Thấy cô không vui lắm, còn ra chiều lo âu, ông hỏi: - Cháu về đâu? - Bác ạ, cháu lên sân bay… Biết còn kịp không hở bác? - Cô nói trong tiếng thở, mặt ngẩng lên nhìn trời. - Chà. Đón người yêu về ăn Tết phải không? Thôi, bỏ xe đạp lên đây đi với bác. Cô gái luýnh quýnh, nói lí nhí trong miệng. Mãi một lúc sau khi ngồi vào trong xe cô mới đặt nhẹ tay lên vai ông già, thỏ thẻ: - Cháu cám ơn bác. Cháu cứ phấp phỏng sợ trời tối. … Bác cũng đi đón người thân bên ấy về ăn Tết phải không ạ? Ông Năm ừ một tiếng rõ to, lên giọng sôi nổi: - Này, cháu quê ở đâu? - Dạ, cháu người miền Bắc ạ. - Biết rồi, nghe giọng nói thì biết người ngoài ấy. Nhưng ở tỉnh nào chớ? - Ôi, cháu xin lỗi bác, cháu người Thái Bình. - Thái Bình hả? - ông thốt lên ngạc nhiên. - Vâng. Cháu mới vào đây chưa đầy một năm. Tự nhiên, không hiểu vì sao, ông Năm thấy bồn chồn trong dạ. Bao nhiêu hồ hởi, rạo rực mới đây giờ biến đi đâu hết. Sao thế này hả? Ông nghĩ ngợi miên man, cố tìm cách nói chuyện thân mật với cô gái nhưng không được, khó khăn quá, lời lẽ chẳng manh nha được tí gì trong đầu ông. Hồi lâu, khi bên tai chỉ còn tiếng lốc cốc móng ngựa gõ trên đường, ông giật mình, cảm thấy khó chịu như có hàng trăm con kiến đang bò khắp thân thể. Thật xấu hổ, ta làm con bé mất vui, không dám mở miệng nói nữa kìa. Ông lấp bấp trong miệng khi tìm ra được điều để nói: - Cháu ăn Tết ra sao? - và một tiếng thở phào thoáng bay trong gió. Cô gái ngồi gần đến bên ông già: - Cháu dạy học, nghèo lắm bác ơi! - Nhưng chắc là vui quá đi chớ có người yêu gần gũi mà, phải không? - Nói vừa hết câu, ông giật giây cương thúc ngựa và ông nghe thấy hai bên mang tai nóng ran lên. Vâng ạ. Cũng đã gần bốn năm nay chúng cháu chưa gặp nhau. - Cùng quê à? - Giọng ông Năm bỗng khô khốc, lạnh lùng đang tra gạn. Nhưng có lẽ cô gái không hề hay biết. - Vâng, anh ấy cùng làng với cháu. Hai vai ông Năm rung lên và từ miệng ông bật ra hai tiếng cộc lốc: - Tên gì? Chỉ có gió đang thổi trong xe mới biết qua giọng điệu của ông Năm một tâm trạng vừa rối lên hoang mang, một trái tim bỗng nhức nhối dữ dội như chực vỡ ra. Còn cô gái cô đã thấy từ xa thấp thoáng đường băng sân bay, và trước mặt cô, một chiếc máy bay sáng loáng đang nghiêng cánh lượn vòng, chực hạ xuống. Cô khẽ kêu lên vui mừng. Không kìm được, cô đứng phắt dậy, đầu đụng vào trần xe. Cô bẽn lẽn, thấy có lỗi với bác đánh xe tốt bụng. Bác hỏi anh ấy tên gì sao cô không trả lời ngay? Cô nắm tay ông già, như làm lành: - Anh ấy tên Chiến, Lê Chiến, ở trung đoàn 812 anh hùng đấy bác! - !!! - Anh viết thư kể cháu mới biết trung đoàn ấy thành lập tại quê hương Thuận Hải mình trong những năm đầu đánh Pháp. Chắc ngày xưa bác cũng ở trung đoàn ấy?... Này, bác ơi! Có phải nhạc hiệu của đài phát thanh tỉnh ta chính là bài “Hành khúc trung đoàn 812” không hở bác?... Ôi, bác làm sao thế! Ông Năm không còn nghe thấy gì nữa, ông tê tái cả cõi lòng, lặng người trong nỗi bàng hoàng tột độ. Ông thấy lạnh buốt từ trong từng kẽ tóc, từ từng ngón bàn chân. Ông thu vai, co rúm người lại… Cơn ho như núp sẵn trong lồng ngực, bất đồ dâng lên, bật ra thành tràng. Những âm thanh giết người ấy làm cô gái ngồi sau sốt ruột, lúng ta lúng túng. Không làm thế nào giúp ông già được, cô chỉ còn biết nắm tay ông chặt hơn, nước mắt rưng rưng. Xe đã vào đến cổng sân bay mà cơn ho của ông Năm chưa dứt, vẫn còn khục khặc. Người lính gác ra hiệu cho xe dừng lại. Cô gái bước xuống, đến bên cạnh người lính xuất trình giấy tờ. Khi đó ông Năm run rẩy toàn thân, hai cánh tay thường ngày đâu đến nỗi tệ lắm giờ bỗng lập cập, vụng về khi rờ vào chiếc xe đạp. Ông không dám ngước lên nhìn cô gái, hai hàm răng cứ đụng vào nhau kêu lục cục. Cô gái nói hổn hển: - Anh bộ đội bảo bác để ngựa xe ngoài này đi bộ vào, bác ạ. Lời nói ấy chẳng còn ý nghĩa gì nữa đối với ông Năm. Ông chỉ muốn khóc thôi. Ông quay mặt đi không để cho cô gái nhìn thấy. Trong lòng ông đang tràn một cảm xúc, ấy là cảm xúc vỡ bờ từ ý nghĩ: “Đánh xe quay về thôi. Một mình ta với chiếc xe ngựa này sẽ lang thang suốt đêm này, đêm trừ tịch”. Ông nín thở, cố gắng lấy sức mới nói tròn một câu: - Cháu đi trước đi, thủng thẳng bác về sau. - Vừa nói ông vừa xoay đầu ngựa, một tay đẩy đẩy lưng con vật. Cô gái tần ngần chưa muốn đi. Ông Năm chậm rãi leo lên xe. Cô gái kinh ngạc mở to mắt nhìn ông già. Bộ mặt nhăn nhúm ủ ê của ông Năm đỏ bừng lên lúc ông quay lại nhìn lăm lăm cô gái từ đầu đến chân. Ông chụp cái mũ rộng vành lên đầu, nghẹn ngào nói: - Cháu vô đi… Bác về… Bác về… Cô gái vung vẫy hai tay, thảng thốt. Nhưng cô chưa kịp kêu lên, chiếc xe ngựa đã ào ào phóng đi, thoắt cái nó đã biến mất sau đám cỏ tranh cao, ở một khúc quanh. *** Còn một tiếng nữa là giao thừa. Khắp các ngã đường pháo nổ râm ran, dày đặc. Từ trong những khoảng tối của phố xá chật hẹp, thỉnh thoảng sáng rực lên rồi lịm tắt muôn vàn tia hào quang của pháo hoa. Ông Năm đánh xe lòng vòng hết đường nầy qua đường khác, rung nhẹ giây cương, ngâm khàn khàn trong cổ họng một bài thơ cổ “Bây giờ năm cũ bước qua - Mà người muôn dặm đường xa…” Bất thần, ông cho xe chạy theo đường vắng ra ngoại ô, nhưng rồi vừa giáp mặt với những cánh đồng, ông lại quay ngựa hướng về thị xã. … Trên con đường lớn nhất của thị xã có một đôi trai gái đang nắm tay nhau, bước đi vội vã. Người thanh niên thấp đậm, mặc quần áo bộ đội, quân hàm quân hiệu lấp lánh. Cô gái thon thả, duyên dáng trong chiếc quần tây đen và chiếc áo sơ-mi màu rêu xanh. Hai người dừng lại trước trụ sở một cơ quan. Cô gái giận hờn: - Anh không tin em… Đây này, em đã đến đúng chỗ này, nhưng cả ba lần gặp ba người khác nhau trong ấy họ đều lắc đầu, bảo không biết. Hôm qua em còn đánh liều đến một lần nữa đấy. Người lính thở dài: - Tại sao lại thế nhỉ? Năm năm, khoảng thời gian ấy có quá dài không hở em? Cô gái nhìn vào mặt người yêu, giọng đầy lo âu: - Anh nghĩ lung rồi đấy… Một ngày còn có thể có hàng loạt biến cố, huống hồ là năm năm. - Em nói thế nghĩa là sao? - Không… Em nghe người ta nói … Mà anh đừng nhìn em như thế chứ? Giọng người lính trở nên xa vắng: - Cũng có thể là bác ấy đã mất… Hồi ấy, bác đã từng bị bọn địch tra tấn, rất dã man, nghe rằng bác bị lao nặng lắm. Một tràng pháo đại bùng nổ, rúng động cả không gian. Cô gái nép sát vào ngực người yêu. Người lính dìu cô gái đi, nén xúc động nói: - Gần bước sang năm mới rồi, cũng không nên sầu thảm quá, phải không em? Nào, có chuyện gì vui kể cho anh nghe đi. - Anh có nghe chuyện lạ không? Truyện ngắn, rất lạ và rất mới - Cô gái đang vui niềm vui thấy trái tim người yêu bắt đầu đập chung nhịp với trái tim mình, nên nói líu lo, trong trẻo. Cô gái kể cho anh nghe câu chuyện mới xảy ra chiều nay trên đường cô đi lên sân bay đón anh. Cô bảo đó là truyện ngắn: “Người xà ích và tôi trong buổi chiều cuối năm”. Người lính nghe chăm chú. Tình cảm anh cứ thay đổi dần theo chuyện kể - buồn cười, kính trọng, ngạc nhiên… và cuối cùng là sửng sốt khi người xà ích đánh ngựa lao đi, bỏ cô gái đứng lại một mình, rất đường đột. Ngay khi ấy, trong trí anh sáng lên một tia chớp: “Người xà ích ấy là bố Năm!” - Bác ấy hỏi tên anh làm gì vậy? - Em nhớ xem, lạ quá … Người lính sung sướng ngậm ngùi, lệ ứa ra hai bên khóe mắt anh. Cô gái đi bên anh không nhìn thấy. Cô chưa kịp biết rằng, đối với anh bây giờ ngoài kia chỉ còn tiếng vó ngựa là đáng quan tâm hơn cả. Ngoài kia… Tiếng vó ngựa đâu rồi? Phan Thiết, tháng 10-1983 M.S. (11/1&2-85) |
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.