Minh họa: Phạm Đại
Chồng Bắc vợ Nam, chồng vợ trong ngoài song sắt nhà tù Mỹ - Ngụy, trên rừng dưới biển… ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Thế là may mắn lắm rồi, còn bao nhiêu cặp vợ chồng cách nhau một thước đất mà gọi hoài có nghe tiếng nhau đâu! Anh tìm chị ở Nha Trang, không có, ở Phan Thiết không có. Ra Đà Nẵng, mất mười ngày long đong, tất tả ngược xuôi thì gặp chị ở khu tập thể Ban quân quản phường Minh Hiếu. Chị đang đứng giữa sân, tay ômmột đứa bé lên hai. Hình như chị đang nói gì với nó. Anh đứng sững lại ở cổng, ngực như bị kim châm hỏa đập mạnh. Ngày anh chị xa nhau hai người nào đã có con… Nhưng anh đã bước lên - từng bước chậm và chắc, “Tiến lên đi, không có gì đáng sợ cả” đó là khẩu hiệu của riêng anh suốt ba mươi sáu năm mặc áo lính. Chị chưa nhận ra anh- “Lại một ông nào đến ban quân quản đề nghị, hợp đồng, trách móc, kiện cáo chi đây”. Anh thấy chị rõ lắm. Chao ôi, chị vẫn trẻ, trắng xanh thế kia. -Lành! - Anh kêu khẽ. Chị mở to mắt nhìn. Chị lúng túng đặt đứa bé xuống đất, vừa sửa lại mái tóc vừa nhìn anh chằm chằm. Anh dừng lại, cúi xuống sửa lại quai dép. “Khỉ! Tại sao mình lại làm cái trò này nhỉ?” - Anh ngước lên. - Ơ! Trời! Chị nhận ra anh, kêu lên và đứng ôm mặt khóc. Anh chạy bổ tới, dang rộng tay ôm ghì lấy chị. Chị bỗng giật mình đẩy mạnh anh ra. Anh kinh ngạc, ngẩn ngơ… Chị ngẩng lên: “Ơ, chồng mình kia mà, chồng mình đó chớ ai!”. Thì ra đó là phản ứng tự vệ bản năng của chị - hai mươi mốt năm ròng có ai ôm ấp chị đâu! Chị sà vào ngực anh nấc lên: “Anh ơi!’ Sao lâu…thế?…” Ngày chia tay anh hứa với chị chỉ hai năm là gặp nhau thôi mà… Anh đưa chị về khu gia binh sư đoàn. Anh là đại tá tham mưu trưởng sư đoàn. Còn chị, ròng rã hai mươi mốt năm xa anh, chì vẫn là một cấp dưỡng của các binh trạm 17, 26, 34… Tin anh tìm được chị chỉ một ngày sau tất cả cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn đều biết đến chúc mừng. Sư trưởng Hùng, người đã cùng anh chiến đấu mười năm nay, đến chơi liên tục chín mười tối liền ông không giấu diếm tình cảm đặc biệt của mình đối với vợ chồng người cán bộ cấp dưới này. Một lần, ngần ngừ mãi, ông hỏi anh: “Hỏi thực, chị vẫn còn có thể… có con chứ?”. Anh mỉm cười: “Còn anh ạ. Cũng lạ… nhà tôi đã bốn sáu tuổi rồi!”. Sư trưởng nắm hai bả vai anh lắc lắc: “Tốt quá? Tốt quá!” Chị vẫn còn sinh nở được nhưng yếu sức lắm rồi. Mười sáu năm ở rừng chị nhiễm bệnh sốt rét kinh niên. Da chị xanh nhọt, tóc rụng nhiều, vàng ợt. Đêm đêm, anh ôm chị vào lòng. Chị lắng tai nghe nhịp tim anh còn khỏe không. Anh cũng đã già rồi, năm nay đã năm bảy tuổi chứ ít đâu. Rất nhiều lần chị ngước lên, thấy kề sát mình khuôn mặt già nua của anh, những nốt sầncủa tuổi già cùng với mồ hôi cộm lên…Chị ôm anh, sờ thấy da lưng anh trơn khô - những lớp tế bào chết ngày mỗi dày thêm. Chị thở dài, chỉ một năm nữa, nếu anh chị không có con, coi như hết. Tuổi sinh nở của phụ nữ mấy ai tới được tuổi năm mươi! Sáu tháng trôi qua, vẫn chẳng có dấu hiệu gì báo cho anh chị rằng sẽ có một đứa con. Anh mỏi mệt nhìn chị mỏng như tờ giấy, ngủ khó nhọc. Một đôi lần: chị kêu chóng mặt, buồn nôn. Và nôn thật. Nôn thốc tháo. Anh cuống lên, nhưng cũng khấp khởi mừng thầm… -Không phải đâu anh ạ. - Chị buồn rầu nói: - Em đã sáu lần ngộ độc chất độc hóa học của Mỹ thả dạo em còn ở “xanh”, từ đó em vẫn hay bị thế này! Cổ họng anh nghẹn tắc. Sư trưởng Hùng vẫn đến thăm anh chị thường xuyên. Ông hay nói về những bài thuốc bắc “kéo dài tuổi trẻ, hạn chế tuổi già”. Ông tự tay đánh xe ra viện 17 mời trung tá bác sĩ Lê Giàu, bạn chiến đấu của ông thời kháng Pháp, một chuyên gia có tiếng về khoa sản, vào khám bệnh cho chị. Bác sĩ Giàu là một người hiền lành, đa cảm. Nghe sư trưởng kể lại hoàn cảnh của anh chị, ông vui vẻ nhận làm một “bác sĩ riêng” cho chị. Ông tỉ mỉ kê đơn tất cả các loại thuốc có thể có trong thành phố này để chị uống, gia tăng thêm sức khỏe. Anh cầm thư giới thiệu và đơn thuốc của bác sĩ đi lùng khắp nơi và kiếm được không thiếu một thứ thuốc gì trong đơn kê, kể cả những thứ thuốc quý hiếm nhất. Đêm đêm, anh vẫn ôm chị vào lòng. Mỗi đêm trôi qua chị càng thấy sự bất lực của hai người trước hy vọng của mình. Có đêm chị đã để tay lên mũi anh, cố tình đánh thức anh dậy, rồi chị lại nằm ôm anh khóc. Chị đâu nỡ đày đọa anh như thế nếu trước khi chia tay anh kịp để lại cho chị một dứa con. Một đứa con! Thiếu nó mà nỗi nhớ thương xa xót của chị về anh suốt bao nhiêu năm đã tăng lên gấp bội. Những ngày ở rừng, cứ nghe tin có một đoàn cán binh nào sắp đi qua là chị lại thấp thỏm mong chờ. Mong chờ và ngồi khóc với bếp lửa rừng. Có một lần, dạo chị còn cấp dưỡng ở binh trạm 26, nghe tin anh đang nghỉ chân ở binh trạm 34, chị gói cơm, một mình cắt rừng, đi suốt hai ngày đêm. Đến nơi chị kiệt sức và xỉu đi vì người đàn ông tên Chi đó không phải chồng chị. Anh ấy đã cầm tay chị nói một câu mà chị không thể quên được: “Thôi chị về đi. Vui vẻ mà về chị ạ. Chị cứ coi như chị đã gặp anh ấy rồi. Và tôi, tôi cũng coi như đã gặp vợ tôi rồi. Chị ơi! Trong chiến tranh đôi khi cũng phải có những giả sử huyễn hoặc như thế để mà sống, để mà trụ vững được…”. Chị về cố gắng níu kéo cái niềm vui “giả sử” ấy để vượt qua 39 cây số rừng. Khu rừng chị đi qua vừa bị chất dốc hóa học dội xuống, lá rừng bắt đầu rụng. Chị chạy sấp ngửa và ngã sấp bên một con suối. Tỉnh dậy, chị gặp ngay ánh mắt người binh trạm trưởng: “Có… gặp không?”. Chị ứa nước mắt, khẽ gật đầu: “Gặp rồi”. Mới đó đã mười một năm… Có lẽ vì chất độc ma quỷ ấy mà chị không có con chăng? Câu hỏi đột ngột ập đến cuối ký ức của chị làm chị bất ngờ ngồi dậy, mồ hôi ướt đẫm. Nhưng cuối cùng chị đã mơ hồ nhận thấy hạnh phúc đã về với anh chị. Khi đó, chị ngước lên, vẫn khuôn mặt già nua của anh lấm tấm mồ hôi. Chị rơm rớm nước mắt. Tự nhiên chị khẽ rùng mình. Một cảm giác mát rượi chạy từ gót chân lên môi chị. Chị níu anh xuống, hôn đến nghẹt thở và chị òa khóc. Một chút ngơ ngác của anh. Mặc kệ. Chị rúc đầu vào nách anh, mỉm cười. Hạnh phúc đã thực sự đến với chị. Nhưng chị chưa thông báo cho anh hay. Chị phấp phỏng chờ đợi cho đến khi nó hoàn toàn chắc chắn. Một tháng sau, chị vén áo lên thấy hai núm vú của mình đã chuyển màu tím sẫm. Chị ngắm say sưa bầu vú của chì đang căng dần… lúc đó chị mới nở một nụ cười mãn nguyện.
Chị đổ bệnh, nôn và nhiệt độ tăng cao. Anh phải nghỉ việc một ngày. Trong sự mệt mỏi, nhức nhối của cơn bệnh, chị nhận ra đứa con thân yêu của chị đang thành hình. Đến ngày thứ ba, chị tỉnh dậy, ngồi tựa vào lưng anh thì thầm: - Em… đã… có… mang… Anh rú lên, ôm chặt chị, hỏi: - Có đúng không? Xem nào! - Xem gì kia? Vô duyên. - Chị đỏ mặt đẩy anh ra. Anh ngượng nghịu ngồi bên, ôm vai chị lắc lắc: - Đúng thế hả em? Chị không trả lời, lặng lẽ hôn lên đôi gò má cao gầy của anh. Đêm đó, anh ngồi hút thuốc cho đến sáng, chị giục anh mấy chục lần anh cũng chẳng chịu chợp mắt. …Cuối buổi giao ban hàng ngày, anh quay sang nói với sư trưởng: - Anh Hùng này, vợ tôi… có thai rồi? Sư trưởng Hùng ngửa người ra sau: - Thế hả? Có chắc không? Anh đã kiểm tra chưa? Anh cười, gãi đầu: - Tối biết thế nào mà kiểm tra. Vợ tôi nói thế… chắc đúng. Một tháng năm ngày rồi… Ông Hùng đưa tay giật giật cổ áo, mỗi lần xúc động ông thường làm thế -Tốt quá! Tốt quá rồi! Ông quay sang thông báo “tin mới nhận được trong ngày” cho các sĩ quan dự giao ban - Tin mới toanh: Đại tá Chi sắp có con! Mọi người ồ lên. Bắt tay. Bắt tay. Bắt tay. Cười. Cười râm ran. Anh cười… ứa nước mắt. Ngày sau đó, khu gia binh râm ran chuyện vợ chồng đại tá Chi sắp có con. Vợ các sĩ quan kéo đến chia vui với chị. Chị ngồi lặng lẽ nghe các chị đã có con bày vẽ cho cách giữ gìn thai: ăn thứ gì, kiêng thứ gì đi đứng, ngủ ngáy ra sao. Chị nghe rồi mường tựa thấy đứa con của mình: khôi ngô, bụ bẫm, nó chập chững lần thành giường đi về phía ba nó. Chợt nó kêu: “Pa! Pa!” và vẫy vẫy tay nhờ ba nó dắt qua một quãng khó đi… Tiếng người nói quanh chị nhỏ dần, quyện lại bồng bềnh trôi mơ màng như một bản nhạc nhẹ nhàng, êm dịu… Đêm khuya, khichị đã chợp mắt được một lúc, tỉnh dậy thấy anh đang lục lọi va li riêng của mình. “Tìm gì vào lúc này nhỉ?”. Chị nghiêng người nhìn anh. Anh ngẩng lên, hớn hở: - Đây rồi! Anh chìa cho chị xem tấm ảnh của anh thời còn bé: - Thằng con của chúng ta sẽ giống như tôi… như thế này. Chị lườm anh: - Biết là “thằng” hay “con” mà đã… Anh ngẩn người “ờ nhỉ! ” rồi cười xòa. - Nhưng thế nào nó cũng giống tôi. Tháng sau, tháng sau nữa… Chị bắt đầu đi lại khó khăn. Da chị đã xanh càng tái xanh hơn. Anh tích cực bồi dưỡng cho chị. Sư trưởng Hùng tặng chị một lít lật ong trộn rượu trắng với lòng đỏ trứng gà. Bác sĩ Giàu vẫn thường xuyên đạp xe đến thăm thai cho chị. Chị đang sống trong thời kỳ sung mãn nhất của hạnh phúc thì đột nhiên đổ bệnh. Lần này nặng hơn, đến nỗi sư trưởng Hùng có đêm phải thức trắng với anh ngoài hành lang phòng hồi sức. Bác sĩ Giàu trực tiếp chạy chữa cho chị, ông nhận thấy khát vọng của chị đã trở thành nhiệm vụ khắc nghiệt đối với ông. Bệnh của chị khá trầm trọng. Không chỉ suy dinh dưỡng thiếu máu vì tuổi già như một số ca bệnh thường gặp, chị còn có một căn bệnh đáng sợ hơn, đấy là chất điôxin của chất độc màu da cam đã ngấm toàn thân chị. Tất cả các bảng phân tích hóa nghiệm về chị đã cho ông khẳng định như vậy. Cố nhiên điều này thì ông giấu mọi người ông bình tĩnh chống trả quyết liệt với căn bệnh nguy hiểm của chị. Tin tưởng vào tay nghề của mình, không bao giờ ông mất hy vọng. Và rồi chị cũng đã khỏi bệnh. Chị ra viện, tuy có yếu hơn, vàng vọt hơn. Khi sắp đến ngày sinh nở hầu như chị đi lại không vững nữa. Anh dành tất cả thời gian rảnh ở bên chị. Anh trở thành cái nạng chống thực sự của chị. Chị mỗi ngày mỗi mệt nhọc, uể oải hơn nhưng trên nét mặt vẫn không hề giảm đi niềm hân hoan của một phụ nữ đến cuối kỳ sinh nở bỗng nhiên có một đứa con. Đêm anh vén áo chị lên, ghé tai nghe tiếng đập của con mình. Anh nghe một cách nghiêm túc và kiên nhẫn. Rồi anh nằm xuống, ngó lên cái lục lạc treo ở trần nhà. Cái lục lạc đã theo anh mười bốn năm nay khắp tất cả các chiến trường. Một người bạn chiến đấu trước lúc hy sinh đã trao lại cho anh: “Cứ mỗi lần thắng trận mày lại rung lên cho tao nghe thấy, tao mừng”. Anh dã làm theo lời dặn đó chưa lúc nào quên. Cái lục lạc làm bằng sừng dê, được chuốt, chạm trổ bằng bàn tay nghệ nhân, mỗi lần rung lên nghe như tiếng trẻ con cười. Sau ngày toàn thắng nó được treo ở trần nhà. Ngày mai, thằng con anh - không hiểu sao anh cứ nghĩ đó là “thằng” - lớn lên, chỉ cần một tuổi thôi là anh đã giao lại cái lục lạc cho nó rồi. Nó có nghĩa vụ phải giữ gìn cái lục lạc cho hết đời mình. Để khi bố mẹ nó đã yên nghỉ dưới “suối vàng”, mỗi lần thành công được một việc gì, nó phải rung lên cho bố mẹ nó mừng… Anh lại nhổm dậy, vén áo chị, ghé tai nghe tiếng con mình. - Thôi mà!- Chị dịu dàng phản đối: - Anh làm phiền con quá. Anh không chịu: - Yên nào! Để anh xem con nó có ý kiến gì không? Chị phì cười. Rồi chị cũng tự nhiên tò mò. - Nó có “ý kiến” gì không? Anh ngẩng lên, đáp tỉnh khô: - Không. Nó nhất trì hoàn toàn. Nhưng tại sao anh lại nghe “te- è, te- è”… hay nó đang thổi kèn? Chị đập khẽ vào vai anh: - Ông già ơi… ma bắt ông đi cho rồi. Anh cười khà: - Ngày mai anh sẽ giao cái lục lạc cho nó, nó khỏi cần phải thổi kèn mệt Và anh ôm hôn chị. - Lão già này sẽ hỏi vợ cho thằng con lúc nó mười sáu tuổi. - Lại “thằng”. Nhất định là “thằng”lão già này đã nằm mơ thấy lão và con lão đến nhà bố vợ nó rồi! *** Ngày đứa trẻ ra đời đã đến. Chị run rẩy bước vào phòng hộ sinh. Hai nữ y tá dìu chị từng bước một lên bậc tam cấp. Bác sĩ Giàu đứng chờ ở cửa, ông trực tiếp đỡ đẻ cho chị bởi vì ông biết chắc đây là một ca đẻ khó. Sau lưng chị là anh, sư trưởng Hùng và gần sáu mươi sĩ quan cùng sư đoàn. Họ hồi hộp ngóng theo bóng chị. Bác sĩ Giàu khép cửa, ông giơ tay chào, ra hiệu cho mọi người “cứ yên tâm”. Một giờ… hai giờ… ba giờ,.. Anh đã uống liền mấy cốc nước đầy. Sư trưởng Hùng thỉnh thoảng lại đưa tay rung rung cổ áo. Một vài sĩ quan ghé tai vào khe hở căn phòng chờ nghe tiếng trẻ khóc. Bốn giờ… năm giờ… một nữ y tá mở cửa bước ra, lập tức chị bị giữ lại: - Ra sao rồi? - Chị Lành sinh rồi. - Chị y tá mỉm cười, nói run run - Con trai - A! Hoan hô! Mọi người nhẩy lên. Sư trưởng Hùng ôm lấy anh lắc rất mạnh. Anh quay cuồng trong niềm vui sướng tột độ. Chợt anh nghĩ đến cái lục lạc mà anh nhớ mang theo khi đem chị vào vào viện… Trong phòng hộ sinh. Chị nằm lịm đi sau khi đã hỏi “trai hay gái” và mỉm cười sung sướng được bác sĩ Giàu cho biết: con chị là con trai. Đứa bé đã được đưa sang phòng hồi sức thai nhi. Người hộ sinh già đang “tắm” cho thai nhi trong bể nước hấp nhiệt. Bác sĩ Giàu đứng dựa vào tủ thuốc thở dốc. Điều mà ông cố gạt đi trong tiềm thức có lý của ông đã đến… Đứa bé là một con người dị dạng! Chân trái cháu bị bẻ gập ra sau, cứng ngắc. Mặt cháu bị bóp méo đến ghê gớm: mí mắt trái phình ra rất lớn kéo xuống bịt kín toàn bộ gò má. Môi dưới cháu cũng phình to, trệ xuống quá cằm. Không! Tạo hóa không tàn nhẫn như vậy. Chỉ có chất độc màu da cam đã ngấm với nồng độ rất cao trong cơ thể người đàn bà tội nghiệp kia mới gây ra như thế. Người hộ sinh già làm việc với một thái độ điềm tĩnh kỳ lạ. Tự nhiên ông thấy ghét người hộ sinh kia. Ông cảm thấy bức bối, khó thở: - Nước! Cho tôi ly nước. Ông kêu to. Một trợ tá từ phòng trực vội vàng cầm ly nước bước vào. Đi ngang qua đứa bé, chị đứng sững lại giật lùi… Choang! Ly nước vỡ tan tành. Chị ngồi thụp xuống, lặng lẽ ngước lên nhìn bác sĩ Giàu. Ông không nói gì, khẽ thở dài, đi về phía cửa sổ. Ông mở hé cửa nhìn ra. Ngoài sân, mấy chục người lính đang quay tròn bên bố của đứa bé mới sinh. Anh đang giơ cao cái lục lạc rung rung, nói như reo: - Tôi sẽ hỏi vợ cho nó lúc mười sáu tuổi. Tiếng lục lạc vang lên, nghe như tiếng trẻ con cười. Huế, tháng 10 năm 1984 N.Q.L (12/4-85) |
ĐOÀN LÊ Tặng anh tôi Anh làm khoa học, tôi là diễn viên nhà hát. Riêng điều đó đã không hợp nhau. Nhưng tuổi trẻ không chịu nghĩ chín chắn, chúng tôi cứ yêu nhau bất chấp mọi giông bão ở cả hai phía gia đình.
NGUYỄN NGỌC LỢITối đó bản Phiệt có buổi liên hoan văn nghệ. Cơm chiều xong Tản đưa tôi vào đó chơi. Chúng tôi đang chuẩn bị đi thì một cô đang dẹp đám cuốc xẻng trong góc lán nói vọng ra. Anh Tản mà đưa anh ấy đi thì có mà... Anh ấy đẹp trai, gái bản theo hết, mất phần đấy... Tản cười, cho theo bớt chứ một mình tôi... mệt lắm.
LÊ NGUYÊN NGỮTrong bối cảnh rạt rào gió bấc và nắng trải vàng như mật bên ngoài báo hiệu Tết sắp vê, con ngựa cũng đứng dạng bốn chân như lắng nghe câu chuyện đầy hoài niệm mà Tư Gồng bắt đầu kể tôi nghe. Giản dị vì đây là câu chuyện về chính nó, Tư Gồng trước kia đã lần khân hẹn khất với tôi chờ đến Tết Con Ngựa. Mà lúc này thì đã là cuối tháng chạp rồi.
NGUYỄN QUANG LẬPChiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đen gọng vàng.
ĐỖ KIM CUÔNG1... Cho đến lúc sực tỉnh, tôi mới nhận ra con đường ra cánh đồng tôm và những vườn dừa dưới chân núi Đồng Bò.
HỒNG NHU Xóm phố nằm trên một khu đất trước đây là một dẫy đồi nghe nói vốn là nơi mồ mả dày đặc, phần lớn là mồ vô chủ không biết từ bao đời nay; và cũng chẳng biết nơi nào có nơi nào không, bởi vì gần như tất cả mồ mả ở đó đều đã bị thời gian mưa gió bào mòn, chẳng còn nấm ngôi gì cả.
TRẦN HẠ THÁP1*Gã nằm xuống thoải mái. Cảm giác mát lạnh của ghế đá còn rịn hơi sương buổi sớm thu giúp gã chợp mắt ngay. Công viên thành phố không chỉ là bạn đời của những ai không nhà, các tên chích choác, kẻ sống ngoài vòng luật pháp... Đây cũng là nơi khá thân quen đối với người như gã. Ít ra đã hơn bốn tháng qua, từ khi gã rời một khách sạn năm sao trong thành phố.
THÁI KIM LAN"Làm sao biết từng nỗi đời riêngĐể yêu thương yêu cho nồng nàn” Trịnh Công Sơn
THÁI KIM LAN(tiếp theo)
NGUYỄN ĐẶNG MỪNGLGT: Cuộc sống cứ lao về phía trước, song những tâm hồn đa cảm thì lại hay ngoảnh nhìn về phía sau. Nước nhảy lên bờ là ánh nhìn về những ngày đã qua giữa một vùng quê bình yên của “đêm trước đổi mới”. Một bức tranh quê sống động, dung dị song ngổn ngang những cảnh đời, những cảnh tình mà chúng ta không được phép quên, bởi tư duy đổi mới của đất nước hãy còn tiếp diễn...
VĨNH NGUYÊNNgô - bạn tôi rủ tôi về làng Chẻ.Đến thành phố H.H., tôi mượn chiếc xe máy của một người quen. Tôi chở Ngô về làng An Hải Trung.
I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.
Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...
Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.
Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.
Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.
Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.
Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.
Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.
Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.