Tiếng hót của thiên cầm

10:01 20/01/2009
TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

Như lời tựa đã báo trước, tập thơ của Tường Phong - tức thầy Nguyễn Đình Niên mà nhiều thế hệ nữ sinh Đồng Khánh đã theo học - là “một thế giới độc thoại, một thế giới còn lại sau bao nhiêu dâu bể, bao nhiêu bất trắc, chẳng quan tâm đến những gì mà người ta thường gọi là tính hiện đại...”
Nhưng khi lần mở tập thơ và đọc từ bài này sang bài khác chúng ta mới thấy thế giới thơ trong đó không hề đơn giản.
Phần đầu tập thơ, Trăng Phương Đông, có lẽ được sáng tác từ lâu nên mang hơi hướng của thơ xưa, với vẻ mượt mà trang trọng phần nào cổ kính, đượm không khí Đường thi và ngôn từ óng chuốt của thơ tiền chiến:
Ngõ lạnh người về nhạt áo Thơ,
Sương nương lối cũ dáng thu hờ,
Chiều xưa trở gió trầm hiu hắt,
Sắc núi lao đao nhịp hải hồ.
                            
(Dặm hồng)
Mưa suốt ba ngày vợi cả thu,
Đèo xa, đâu nhé! thoáng sương mù,
Lan rừng chắc đã mờ nhan sắc,
Như mắt hôm nao khóc tạ từ.
                            
(Vô đề )
Phần thứ hai, Vẫn là tình nhân, tứ thơ đã khác rất nhiều, dường như tâm hồn người thơ đã đổi thay cùng với thời gian, với cuộc sống, mang một màu sắc mới mẻ hơn, không còn dàn trải với vẻ buồn nhẹ nhàng man mác mà xoáy vào những cảm xúc buốt xót tạo nhiều ấn tượng. Tuy vẫn giữ luật bằng trắc của thơ bảy chữ, nhưng tác giả đã giảm bớt rất nhiều sự nhịp nhàng của âm điệu thơ, câu thơ bây giờ mộc mạc hơn về ngôn từ nhưng lại nặng ký hơn trong ý tưởng.
Xáo trộn thời không trong tóc rối,
Một cơn sắc nước gió khuynh thành,
Thiên đường địa ngục đi theo sóng,
Còn lại mình em - Em của anh.
                              
(Sợi áo tơ trời)
Từ bỏ sự nhịp nhàng trầm bổng có phần máy móc của thơ cũ, tác giả giờ đây chú trọng nhiều đến sức mạnh chất chứa của hình ảnh:
Mỗi ngày làm một bài thơ
Góp một que diêm cho người đốt thuốc

Mỗi ngày làm một bài thơ,
góp một nốt nhạc cho người hát ca
....
Mỗi ngày làm một bài thơ, góp một chút bọt sủi tăm
Cho ly rượu người thất tình
ngồi một mình trên mỏm đá
dưới chân quây quần sao

Mỗi ngày làm một bài thơ
Góp một chiếc hôn
Cho người quá lứa yêu đương
.
Nhưng phải đến phần thứ ba, Thơ của người cô độc, sức hút mạnh mẽ của thơ mới thực sự bộc lộ qua những câu chữ mộc mạc mà chất chứa rất nhiều nội lực. Có thể nói đây là những vần thơ cô đọng nhất trong đời người thi sĩ đã “làm thơ từ trong bụng mẹ”, giống như những hạt trai già dặn và kết tinh nhất trong lòng con trai già dưới biển khơi.
Phải chăng những lời thơ ấy đã được chắt lọc từ cái giá phải trả là một đời cô quạnh với bao nhiêu trải nghiệm sâu sắc của kiếp người:
Bướm đổi thân Trang Chu,
Ôm cái nghèo sống ngang trời đất,
chỉ còn một vầng trăng.

Mây trắng ta trả núi,
Tiền bạc trả lại cho người đời,
Xương thịt trả cho đất.

Em như tấm khăn lụa
Cứ mười năm đổi màu một lần
Băng bó trái tim anh.

Thơ của người cô độc với một tiết nhịp và âm điệu riêng rất khó tả, để lại trong tâm trí người đọc ấn tượng về một loài thiên cầm - một loài chim nhả tiếng hót từ trong đau đớn và thương yêu, nên tiếng hót ấy là những viên ngọc đỏ như máu và trong vắt như pha lê.
Những viên ngọc ấy làm cho sự cô độc thăng hoa, trở thành mảnh đất để tác giả trồng lên một loài cây đắng chát mà cho ta một thứ quả rất ngọt ngào. Đó là tình thương yêu da diết cuộc đời này với những nỗi đau và những ước mơ tha thiết.
Dù có lúc mệt mỏi với cuộc sinh tồn quá ư nặng nhọc “ cái mẹo nhỏ nào/ Để ta thoát khỏi trần gian này/ Đi về một cõi khác?” nhưng trong dự cảm về chuyến vượt thoát khỏi trần gian, tác giả vẫn không quên mong mỏi:
 Ta nhập một cùng ánh sáng mặt trời
 Bay về nơi em ở...
 Một khi tâm thức còn gắn chặt với ý niệm về mặt trời và tình yêu, thì loài thiên cầm vẫn còn tiếp tục cất tiếng hót trên mặt đất đầy bão tố này. Và như thế, người thơ đã không còn cô độc...
T.T.M

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)