PHẠM TUẤN VŨ
Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học không phải là vấn đề mới mẻ. Từ xưa, cổ nhân đã nói đến vấn đề “ý tại ngôn ngoại, huyền ngoại chi âm, cam dư chi vị 意在言外, 玄外之音, 甘餘之味” (ý ở ngoài lời, âm thanh ở ngoài tiếng đàn, mùi ở ngoài vị ngọt), “ngôn tận ý bất tận” 言盡意不盡 (lời cạn ý không cạn) của văn chương, nhất là thơ ca.
Ảnh: internet
Có thể người xưa chỉ điểm qua đâu đó mà chưa xây dựng thành hệ thống lí luận về tính đa nghĩa của tác phẩm văn học như ngày nay, nhưng qua nhiều hình tượng văn chương trong văn học cổ, ta thấy được điều này. Tiếng đàn của Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh 斷腸新聲 là một điển hình như vậy.
Trong Truyện Kiều, nàng Kiều họ Vương đánh đàn bốn lần, hai lần cho chàng Kim Trọng (đầu và cuối truyện), một lần cho vợ chồng Hoạn Thư và một cho “quan tổng đốc trọng thần” Hồ Tôn Hiến. Nói như nhà thơ Tế Hanh trong bài viết Bốn lần Kiều đánh đàn (Tc Văn học, 12/1965), lần thứ nhất và thứ tư “là những khúc nhạc yêu đương”, hai lần còn lại “là những khúc nhạc đau khổ”. Ở mỗi thời điểm, tiếng đàn nàng Kiều có những sắc thái, cung bậc khác nhau nhưng đều có điểm chung là xúc động lòng người, khiến mỗi người nghe không “não nùng xôn xao” thì “cũng tan nát lòng”, “khi vò chín khúc khi chau đôi mày”, ngay cả kẻ “mặt sắt” Hồ Tôn Hiến cũng phải “nhăn mày rơi châu”. Hình tượng tiếng đàn Thúy Kiều mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu một phương diện là tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm văn học nói riêng thông qua hình tượng độc đáo này.
Nguyễn Du đã rất dụng công khi xây dựng hình tượng tiếng đàn nàng Kiều, “bốn lần đều khác nhau và hay như nhau” bởi nói như Tế Hanh (tài liệu đã dẫn trên), “lấy thơ tả nhạc là một điều khó. Tả nhiều lần mà khác nhau mà hay như nhau thì khó đến đâu!” và “cái khó mà Nguyễn Du vượt qua một cách vinh quang như chúng ta đã thấy”. Có lẽ khi dành nhiều tâm huyết xây dựng hình tượng này, cụ Nguyễn cũng đã cảm nhận được vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, nhất là tác phẩm thơ ca.
Bản nhạc mà nàng Kiều đánh có tên “Bạc mệnh” (泊命), được “pho vào đàn ấy những ngày còn thơ” vì “quen mất nết đi rồi”. Đây là bản nhạc hay nhưng buồn. Cái tên của nó đã nói lên điều đó. Kim Trọng, Chung Tử Kỳ của tiếng đàn Thúy Kiều, cũng phải thốt lên khi nghe Kiều đánh lần đầu: “Rằng: ‘Hay thì thật là hay / nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào’…”. Bản đàn của Kiều là một tác phẩm âm nhạc (cung thương lầu bậc ngũ âm / nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương), hiểu rộng ra là một tác phẩm nghệ thuật. Trong cái nhìn tương qua với lĩnh vực văn chương, có thể xem bản đàn ấy như là một tác phẩm văn học xuất sắc. Vậy, những biểu hiện nào của tính đa nghĩa trong tác phẩm ngôn từ được thể hiện qua hình tượng tiếng đàn Thúy Kiều?
Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học có thể hiểu là “khả năng tác phẩm cho phép được hiểu, được cắt nghĩa và đánh giá theo những cách khác nhau trong quá trình tiếp nhận của công chúng độc giả” (Trần Thanh Bình, Bài giảng Một số vấn đề về tính đa nghĩa của tác phẩm văn học, ĐH Quy Nhơn). Dĩ nhiên, cách hiểu, cách cắt nghĩa, đánh giá ấy phải có cơ sở từ tác phẩm. Nói một cách dễ hiểu, tính đa nghĩa thể hiện ở tác phẩm có từ hai cách hiểu trở lên, tất nhiên, đó không phải là nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn mà là những ý nghĩa hàm ẩn được gợi mở từ nghĩa tường minh. Nếu xem tiếng đàn Thúy Kiều là một tác phẩm văn học thì qua những cung bậc cảm xúc, những tác động của nó đến người nghe, ta thấy được những nét cơ bản nhất về tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương.
Trước hết, dù là “cùng trong một tiếng tơ đồng” nhưng bản nhạc nàng Kiều mang trong mình nhiều nội dung khác nhau. Đó là những khúc “Hán, Sở chiến trường”, khúc “Tư Mã Phượng Cầu”, khúc “Quảng Lăng”, khúc “Chiêu Quân”. Bản đàn ấy cũng mang nhiều sắc thái không giống nhau, lúc “trong như tiếng hạc bay qua”, lúc lại “đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, lúc “khoan như gió thoảng ngoài”, lúc lại “mau sầm sập như trời đổ mưa” sau này lại “đầm ấm dương hòa”, “êm ái xuân tình”… Tương quan so sánh với tác phẩm văn học, ta thấy, một tác phẩm mang tính đa nghĩa phải có khả năng gợi mở nhiều nội dung, nhiều cách hiểu khác nhau, đem lại những màu sắc, hiệu ứng thẩm mỹ không giống nhau. Một tác phẩm lúc mà lúc nào cũng chỉ là “khúc Chiêu Quân”, từ đầu đến cuối chỉ “đục như tiếng suối mới sa nửa vời” thì chắc chắn sẽ rất hạn chế tính nhiều nghĩa. Như vậy, yếu tố đầu tiên và quyết định đến tính đa nghĩa của một tác phẩm chính là tự thân tác phẩm đó. Bản đàn Thúy Kiều rất tiêu biểu cho yếu tố này nếu xem nó là một thực thể nghệ thuật sống động, có sức sống nội tại của nó.
Trong những tiền đề của tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương, mơ hồ, nhòe về nghĩa là một yếu tố quan trọng. Chính sự mơ hồ này mà ranh giới của những cách hiểu bị làm mờ, nhòe đi, tạo những “khoảng trống” để người đọc đồng hành cùng tác giả trong quá trình lao động nghệ thuật xây dựng lâu đài ngôn từ bằng cách chọn cho mình những cách hiểu phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ, sở thích… Mỗi người đọc sẽ có cách hiểu riêng của mình, dĩ nhiên những cách hiểu ấy phải có cơ sở từ tác phẩm. Từ đó, ý nghĩa của tác phẩm sẽ trở nên dồi dào, bất tận. Sự mơ hồ về nghĩa là một ưu thế trong việc gợi mở, vẫy gọi nhiều cách hiểu của tác phẩm văn học mà không một loại hình nào theo kịp. Tiếng đàn Thúy Kiều khi đánh lần đầu cho chàng Kim nghe nói lên điều này. Cùng một tiếng đàn ấy thôi mà có đến bốn khúc nhạc được thể hiện với nhiều màu sắc khác nhau. Điều đặc biệt, các khúc nhạc ấy không hề tách bạch mà dường như có sự đan xen, chồng xéo lên nhau, rất khó phân biệt. Nguyễn Du dùng đến hai lần cụm “khúc đâu” đủ thấy sự mơ hồ, nhập nhằn ấy. Thậm chí, trong một khúc có tên “Chiêu Quân”, nội dung của nó cũng khó phân định rạch ròi. Nhà thơ miêu tả “nửa phần nhớ chúa, nửa phần tư gia” cũng chỉ là cách nói hết sức ước lệ mà thôi. Không dễ dàng để phân biệt trong khúc “Chiêu Quân” này đâu là “nhớ chúa”, đâu là “tư gia”. Như vậy, tính mơ hồ, nhòe về nghĩa rất quan trọng trong việc tạo nên tính đa nghĩa cho tác phẩm. Có thể nói, tác phẩm càng nhòe, mờ về nghĩa bao nhiêu càng dễ tạo nên nhiều cách cắt nghĩa bấy nhiêu. Tất nhiên, sự mơ hồ này phải do tác giả cố tình tạo nên như là một thủ pháp nghệ thuật, chứ không phải là sự mơ hồ do rối rắm, vụng về.
Cùng với bản thân tác phẩm, người đọc là yếu tố quan trọng tạo nên tính đa nghĩa cho tác phẩm. Lý thuyết tiếp nhận văn học ngày nay rất đề cao, thậm chí nhiều trường phái còn độc tôn vai trò của độc giả. Nếu truyền thống xem người đọc là “tri âm, tri kỷ” của tác giả, là người khám phá những gì nhà văn kí thác vào tác phẩm một cách thụ động, thì trong tiếp nhận văn học hiện đại, độc giả được xem là người đưa sáng tác của nhà văn từ phạm trù “văn bản” đến “tác phẩm”, là người quyết định đến số phận tác phẩm. Người đọc được xem là tác giả thứ hai với vai trò đồng sáng tạo, chủ động tích cựu trong việc làm giàu ý nghĩa cho tác phẩm văn chương. Mỗi độc giả tùy vào lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn…; tùy vào kinh nghiệm, năng lực, thị hiếu thẩm mỹ… sẽ tìm được cho mình những cách hiểu, cách cảm khác nhau về tác phẩm văn học, từ đó mở rộng biên độ nội dung cho tác phẩm, làm cho ý nghĩa của tác phẩm không ngừng phát sinh. Trong Truyện Kiều, cùng là một bản “Bạc mệnh” mà Kiều đánh, nhưng mỗi người nghe lại có những biểu hiện của sự tiếp nhận khác nhau. Kim Trọng thì “ngơ ngẩn sầu / khi tựa gối, khi cúi đầu / khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”. Thúc Sinh thì “giọt châu lã chã khôn cầm/ cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương”. Còn tên “quan tổng đốc trọng thần” thì “lọt tai, Hồ cũng nhăn mày rơi châu”. Dù rằng cùng một cảm xúc buồn nhưng phản ứng của mỗi người không giống nhau. Ở những vị địa vị, quan hệ, tâm thế khác nhau, mỗi người trong họ có những cảm nhận về tiếng đàn nàng Kiều không như nhau. Tính đa nghĩa của bản nhạc, hay suy ra là tác phẩm văn chương, có một phần rất quan trọng do người tiếp nhận quyết định. Khái quát điều này, cụ Nguyễn Du đã viết: “Cùng trong một tiếng tơ đồng/ kẻ ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Dĩ nhiêu, người tiếp nhận không phải là yếu tố duy nhất quyết định tính đa nghĩa của một tác phẩm. Nói cách khác, những ý nghĩa mà người đọc xa rời văn bản, tự ý suy diễn, áp đặt, xuyên tạc cho tác phẩm đều không được chấp nhận.
Không chỉ đối với nhiều đối tượng tiếp nhận khác nhau mà ngay cả trong một người đọc, tính đa nghĩa của tác phẩm cũng có thể phát sinh. Một độc giả lúc còn nhỏ, khi trưởng thành, khi bước vào tuổi “tri thiên mệnh”; lúc còn học tập, khi giảng dạy, nghiên cứu; lúc buồn, lúc vui, lúc khổ đau, hạnh phúc… sẽ tiếp nhận tác phẩm không giống nhau. Đây là điều dễ hiểu bởi tác phẩm có một “năng lượng nghĩa khổng lồ”, một tiềm năng ý nghĩa bất tận mà trong mỗi chặng đường của cuộc đời, mỗi hoàn cảnh sống, mỗi bước trưởng thành… người ta sẽ chiêm nghiệm, khám phá, thẩm định không giống nhau. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng tiêu biểu cho điều này. Chàng Kim là người duy nhất được nghe Kiều đánh đàn hai lần một cách tự nguyện. Bản nhạc mà Kim được thưởng thức cũng “đầm ấm”, “êm ái” nhất trong bốn lần Kiều đánh đàn. Vậy mà giữa hai lần nghe, đầu và cuối truyện, hạnh ngộ và tái ngộ, cảm nhận của chàng về ý nghĩa tiếng đàn không hoàn toàn giống nhau. Nếu đầu truyện là “Rằng: hay thì thật là hay/ nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào/ lựa chi những khúc tiêu dao/ cực lòng mình, cũng nao nao lòng người” thì cuối truyện, trong đêm hợp cẩn muộn màng, “khúc đâu đầm ấm dương hòa/ ấy là Hồ Điệp hay là Trương Sinh/ khúc đâu êm ái xuân tình/ ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên”. Rõ ràng, ý nghĩa, sắc thái cảm xúc bản đàn của Kiều trong sự tiếp nhận của Kim “xưa sao sầu thảm, này sao vui vầy”, nghĩa là có sự thay đổi rất lớn. Bởi lúc này, Kim Trọng không còn “là người ngày xưa”, Thúy Kiều cũng đã không còn là nàng Kiều của buổi ban đầu nữa. Cũng là một bản “Bạc mệnh” đó thôi, nhưng ý nghĩa của nó trong sự tiếp nhận của người nghe ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ không giống nhau. Ý nghĩa của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều tâm trạng, vốn sống, trình độ thẩm mỹ… của người đọc mà chính cụ Nguyễn đã nói: “Tẻ, vui bởi tại lòng này”.
Tất nhiên, vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm nghệ thuật ngôn từ nói riêng hết sức phức tạp. Một hình tượng bản đàn không đủ để khái quát được những khía cạnh, phương diện của nó. Tuy vậy, bằng một con mắt tinh tường, một vốn sống dày dặn và một tài năng nghệ thuật trác tuyệt, Nguyễn Du đã để lại cho hậu sinh một hình tượng nghệ thuật thành công, độc đáo và giàu giá trị. Trong những giá trị của tiếng đàn nàng Kiều, giá trị lý luận về tính đa nghĩa, có thể là nhà thơ vô tình, ở một phương diện nào đó, xứng đáng được xem là một đóng góp của thi hào Nguyễn Du đối với lý luận văn học nghệ thuật của nước ta thời trung đại.
P.T.V
(TCSH346/12-2017)
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.
THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.
NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?
NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.
HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)
LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).
THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.
NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.
PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.
TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?
NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...
TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.
HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.
TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...
TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.
PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.
TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)
NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...
NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.