TRẦN HOÀNG
(Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)
Người Việt Nam vốn dĩ thích cười, hay cười và biết cười. Sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân khi viết về truyện cười dân gian đã phải thốt lên những lời đầy thán phục: "Tổ tiên ta thiệt là những nghệ sỹ tạo hình cho tiếng cười Việt Nam... và có cả cái gì như là một biên chế đầy đủ thang bậc về tiếng cười"(1). Khi mừng vui, thích thú cười đã đành, chứ lúc buồn khổ, đớn đau mà cũng cười là một điều hết sức kỳ lạ.
"Cười như cậu khóa hỏng thi
Khóc như cô gái ngày đi lấy chồng".
Người Huế - Thừa Thiên bản tính dịu dàng, thâm trầm, kín đáo, tế nhị, ưa sự nhẹ nhàng, thanh lịch, ấy vậy mà trong Văn học dân gian cố đô lại xuất hiện một loại truyện cười hết sức độc đáo, thú vị - truyện "Các mệ", và giờ đây, với "Giai thoại Nguyễn Kinh" chúng ta lại được đón nhận một tiếng cười dân gian của một vùng quê, không kém phần hấp dẫn, lý thú.
Nếu như ở "Văn học dân gian Hương Phú" (Sở Văn hóa Thông tin BTT xuất bản 1988), tác giả Triều Nguyên đã tiến hành sưu tầm, khảo cứu toàn bộ di sản Văn học dân gian của một vùng đất, từ cổ tích, câu đố, đến tục ngữ, ca dao... thì ở tập "Giai thoại Nguyễn Kinh", anh chỉ giới thiệu với độc giả các câu chuyện xoay quanh một nhân vật - Ông Nguyễn Kinh, người con của một làng quê ở Hương Thủy. Cứ theo lai lịch mà xét thì nhân vật này ra đời và sống vắt qua hai thế kỷ. Bởi vậy, ông đã được chứng kiến bao sự biến động của đất nước, được sống với bao cảnh đời khốn khổ, đắng cay.
Là người thuộc lớp cùng đinh trong xã hội, nhưng ông đâu có chịu sự cam phận sống tôi đòi. Ông cựa quậy, ông vùng quẫy, ông chống trả lại các thế lực đen tối đang đè đầu, cưỡi cổ người dân quê bằng tiếng cười châm biếm thực mạnh mẽ, sâu cay? Đồng thời ông cũng lại dùng tiếng cười để mang đến niềm vui cho gia đình, bà con bè bạn, xóm thôn...
Nói đến tiếng cười trong giai thoại dân gian là nói đến một tiếng cười đầy thông minh, trí tuệ. Để có được tiếng cười ấy, Nguyễn Kinh đã chủ động tạo nên nhiều tình huống trớ trêu, quái ác để đưa các nhân vật bị cười vào tròng. Từ kẻ "đứng đầu hàng xã" kênh kiệu, quan cách, từ lão trọc phú keo kiệt, háo danh... đến kẻ dốt nát nhờ chạy chọt, luồn cúi mà có bằng này, sắc nọ..., không một loại nhân vật xấu nào thoát khỏi cái bẫy cười của ông, không bị các ngón cười của ông biến thành loại "nhân vật triển lãm" (Truyện: "Cái bị lác”, "Phú ông đổi tên", "Học khôn đọc khéo"...) Đối với loại nhân vật này, Nguyễn Kinh thường mượn chuyện người khác, hoặc ứng tác ra một chuyện mới rồi vận vào hoàn cảnh thực của nhân vật ông đang đối đầu để châm biếm, cười cợt, còn Nguyễn Kinh thì đóng vai các anh hề đang tung hoành trên sân khấu. Lại cũng có trường hợp họ Nguyễn dựa vào một công việc mà người ta buộc ông phải làm hoặc tự ông đứng ra nhận lấy để rồi dựng lên một tấn hài kịch mua vui cho thiên hạ. Truyện "Thầy lý mất phần" là một truyện tiêu biểu và đặc sắc nhất của kiểu truyện này.
Châm biếm, đả kích những kẻ có chức có quyền hống hách, ngu dốt, những bọn giàu có hợm mình..., Nguyễn Kinh cũng lại không tha những kẻ buôn thần, bán thánh. Ở đây, Nguyễn Kinh, giống như Trạng Quỳnh không chủ ý đùa cợt, báng bổ tín ngưỡng của nhân dân. Các ông chỉ đả kích những ai mắc vào vòng mê tín dị đoan, hoặc những kẻ dựa vào đức tin của nhân dân để làm điều xằng bậy... Bởi vậy, tiếng cười của Trạng Quỳnh, của Nguyễn Kinh có ý nghĩa nhân sinh rất cao. Họ đã đứng về phía văn minh, tiến bộ để không đả phá những gì thuộc về bảo thủ, trì trệ... Cười cợt, châm biếm lũ mọt dân, hại nước, Nguyễn Kinh đã làm một công việc hết sức dũng cảm. Nhìn rõ bản chất và những hành vi xấu xa, ti tiện của chúng, bằng tiếng cười và qua tiếng cười, ông lôi chúng ra trình diện với thiên hạ, không cho chúng lẫn trốn vào bất kỳ một cái vỏ mỹ miều nào. Ở đây, tiếng cười xứng đáng là "Vũ khí của người mạnh”.
Bên cạnh tiếng cười đả kích vào hạng người phi nhân bản, trong "Giai thoại Nguyễn Kinh" còn có một tiếng cười khác hết sức trẻ trung, sảng khoái và vô cùng đôn hậu. Đây là tiếng cười giành cho bè bạn, cho làng xóm, cho người thân, kẻ thích trong gia đình. Nguyễn Kinh tự cười cái quần rách của mình, cười cái tính hay lo xa của vợ và cười cả sự bủn xỉn của ông hàng xóm. Ông vui với ngôi nhà mới của bạn; ông đùa với ông thợ đóng hòm... Tất cả đều chan chứa một sự cảm thông, một lòng nhân ái, đậm đà tình làng, nghĩa xóm... Đọc các truyện "Ăn no lo xa","Sấp ngữa", "Nhiều cá quá", ta chợt nhớ tới chuyện chàng ngốc làm theo lời vợ dặn thuở xưa, nhưng cái "ngốc" của Nguyễn Kinh là cái ngốc của sự thông minh, hóm hỉnh - một cái ngốc cố ý. Tiếng cười vui vẻ, trẻ trung, khỏe khoắn bật ra chính là ở chỗ này. Lại nữa, những câu chuyện nói về tài ba, về sự khôn khéo của nhân vật Nguyễn Kinh trong việc giải quyết một số vấn đề nan giải, một số tình thế bế tắc để giành thắng lợi hoặc tránh được thất bại, cũng là những câu chuyện mang lại cho độc giả tiếng cười ý vị, lý thú. Cái kết thúc bất ngờ của câu chuyện, vừa cứu nguy cho nhân vật, vừa làm cho mọi người sung sướng, hả hê (3)…
Người ta thường nói: người biết cười là người biết sống, và cái nền tạo nên tiếng cười là lòng yêu thương con người, là niềm tin yêu cuộc sống, là sự căm ghét đến cao độ tất cả mọi cái bất công, giả dối, ngu đần... Cuộc đời và những chuyện vui buồn xoay quanh nhân vật Nguyễn Kinh chính là một minh chứng cho điều đó.
Xét cho công bằng, ở "Giai thoại Nguyễn Kinh", chưa có nhiều chuyện thực độc đáo, đặc sắc. Một số chuyện còn giản đơn về kết cấu, hoặc còn có sự vay mượn ở chuyện này chuyện khác... Dù vậy, tập sách vẫn có đầy đủ tư cách là một tập giai thoại dân gian mang bản sắc địa phương rõ rệt, từ cách dựng truyện đến các thủ pháp nghệ thuật tạo nên tiếng cười... "Giai thoại Nguyễn Kinh" một lần nữa ghi nhận cái tâm huyết của người sưu tầm đối với di sản văn hóa dân tộc, đối với quê hương, đất nước. Không có cái tâm huyết ấy thì không thể nào vượt qua bao trở ngại, khó khăn, để làm cái công việc "đãi cát tìm vàng" suốt mấy năm ròng rã và mang lại cho độc giả trong huyện, ngoài tỉnh một tập truyện dân gian có bản sắc. Với tập sách của anh Triều Nguyên, từ đây Nguyễn Kinh đường hoàng bước vào hàng ngũ các nhân vật của giai thoại dân gian, như Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Ba Phi...
Xuân Tân Mùi
T.H.
(TCSH44/01-1991)
-------------------
(1) Dẫn theo "Truyện cười dân gian VN". NXB Văn Học, Hà Nội, 1964.
(2) "Huế - Những giai thoại" (Tôn Thất Bình sưu tầm- biên soạn. Sở Văn hóa thông tin BTT XB 1987)
(3) Xem các truyện: Làng động, Nhờ thầy một chút, Bài chỉ cộ.
THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.
BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.
MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.
HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.
HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự: Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập trong hòa ca Một nốt trầm xao xuyến (Mùa xuân nho nhỏ)
Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.
PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).
HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.
LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.
PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.
NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.
NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…
KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.