Tiếng con tim so bước độc hành

10:26 09/10/2008
VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

Tiếng thơ ấy, không diệu vang ngôn từ, không giác cảm kỹ thuật, không cách điệu quán tưởng, bởi nó là tự tâm của một chiếc bóng chung chiêng “Con tim so bước độc hành” như: “Giọt nắng vô tình rơi qua cửa sổ / Thắp vào khoảng không gian ánh sáng mặt trời / Em vô tình đi vào cuộc đời tôi / Thắp nụ hôn đốt tình yêu cháy thành ngọn lửa / Ta hoá vào nhau cả tâm hồn lẫn những dòng máu đỏ / Để tình yêu không còn chút vô tình…”. (Giọt nắng vô tình).
Bao nhiêu năm “Mảnh đời sấp ngửa / Nỗi lòng lặng lẽ ngược chiều nhau”, bao nhiêu năm đi giữa “Đôi bờ sông vắng” khi Nhật Lệ thơ ấu, lúc Hương Giang khói người, Nguyễn Thanh Tú vẫn bản lĩnh một giọt tuý ca riêng mình, rằng: “Tôi còn một chút men say / Xin dâng hết chút tình gầy mồ côi / Tình cờ duyên phận thế thôi / Tôi như hoa cỏ tắm trời mùa xuân”.
Vốn sinh ra trên vùng đất đá mọc, đàn ông núi xanh, đàn bà nhìn mây bói trời, nên dù có “vượt qua vùng sỏi đá, tìm đất gieo hạt giống thị thành”, Nguyễn Thanh Tú vẫn mộc mạc một không gian thơ giản dị với những câu chữ mà không mất đi vẻ đẹp của thi ca và sự đạm bạc của đớn đau tựa “Đường đạn bay từ bóng tối / Xuyên thịt da vết sẹo thành hình” hay không ngại ngần “rướn mình lên những nỗi đau” để tâm tình với nhân gian bao kỷ niệm bề bộn dĩ vãng, bao nhiêu tương lai hồi hộp thay mùa tuổi.

Chẳng có gì cao sang đong đầy mơ ước, trong thơ Nguyễn Thanh Tú, tất luôn hiện hữu quanh đời, là mưa mộc mạc, là gió phiêu du, là đất đai bản quán buồn thương, là hơi thở chân thành tình nhân, là những mùa lông măng vươn ra từ xương tuỷ, lắng đọng một cách hồn nhiên sắc không tiếng nói chắt chiu máu thịt đời người.
Mang theo chân lời ấy, tôi đã gặp bao nhiêu tấm lòng thơ dâu bể, sẵn lòng đốt mình để lắng nghe tiếng nói tự tính, dù âm thầm nhưng không vì vậy mà mất đi sự lễ độ với nỗi buồn. Và có lẽ, đó cũng là ý niệm của Nguyễn Thanh Tú muốn bày tỏ thái độ đời của mình:
Sẽ vĩnh hằng khoảnh khắc ấy đóng băng
Điểm lạnh giá cũng chính là điểm tựa
Và trái tim mang hình ngọn lửa
Đốt cuộc đời trong sáng lặng im
                                                         
(Sự lặng im)
Nguyễn Thanh Tú, thơ, dường như không phải là một sự đổi ngôi trong mọi cử chỉ, bởi trong sâu thẳm của anh “Sự im vọng hơn lời diễn thuyết / Ôm bóng mình tâm sự với thời gian”.

Về Phía Biển
, Nguyễn Thanh Tú không đi tìm cõi mênh mang của tự nhiên, qua thơ, anh đi về phía mênh mang của đời mình. Ở những nơi có bóng mẹ như dấu hỏi nặng trĩu trời chiều, có bóng đồng đội rụng rơi tế bào trong đất đá, có sắc không ánh chiều lên môi em, có dấu bùa mê nát nhàu lá cỏ, có cánh rừng nguyên sinh chẳng bao giờ khắc khoải màu lá vì những nơi đó, Nguyễn Thanh Tú được trở thành khờ dại cho tháng năm tàn úa phía riêng mình.
Cho tháng năm tàn úa phía riêng mình, là bản lĩnh của một con người vần điệu, vì rằng dù hạn hữu, nhưng bằng tâm thức thơ, con người sẽ được chấp nhận và hoà điệu “Tiếng con tim so bước độc hành” với nhịp sống vô thường trong từng khoảnh khắc hiện sinh.
Huế, tháng 11 năm 2006
         
V.C.H
(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH TÂM    

        …đi về đâu cũng là thế… 

  • GIÁNG VÂN

    LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

  • HỒ THẾ HÀ

    Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất sắc trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuộc sống và trang thơ của ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giải mã ở tất cả các cấp độ thi pháp với giá trị độc sáng riêng của chúng. Người đến sau khó có những phát hiện gì thêm từ thế giới chỉnh thể nghệ thuật ấy.

  • NGUYỄN THÀNH NHÂN

    Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.” 

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
    Nhân 17 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Bổng (11/7/2001 - 11/7/2018)    

    Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào, với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị… (Nhà thơ Hữu Thỉnh).

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân. 

  • NGUYỄN DƯ

    Đang loay hoay thu dọn lại tủ sách bỗng thấy cuốn Dã sử bổ di. Tự dưng muốn đọc lại. Nhẩn nha đọc… từ đầu đến cuối!

  • NGUYỄN VĂN SƯỚNG

    Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.

  • TRUNG TRUNG ĐỈNH

    Khóa học đầu tiên của trường viết văn Nguyễn Du do ý tưởng của ai tôi không rõ lắm. Nhưng quả thật, sau 1975, lứa chúng tôi sàn sàn tuổi “băm”, cả dân sự lẫn lính trận đều vừa từ trong rừng ra, đa số học hết cấp III, có người chưa, có người đang học đại học gì đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.

  • LIỄU TRẦN

    Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Có thể gọi đây là cuốn hồi ký đặc biệt vì nhiều lẽ. Trước hết, vì tác giả hình như chưa viết báo, viết văn bao giờ. Bà là PGS.TS chuyên ngành Dược, nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại có “thế mạnh” hơn nhiều cây bút khác - Cao Bảo Vân là con gái của tướng Cao Văn Khánh (1916 - 1980).

  • HOÀNG THỤY ANH    

    Đỗ Thượng Thế là giáo viên dạy mỹ thuật. Ấy thế mà, nhắc đến anh, người ta luôn nghĩ đến nhà thơ trẻ. Cũng đúng thôi, nhìn vào hoạt động thơ ca và các giải thưởng của anh mới thấy cuộc chơi chữ đã lấn át hoàn toàn sân họa.

  • DO YÊN     

    Trong không khí kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn - cựu chiến binh Nguyễn Quang Hà đã trình làng tiểu thuyết Nhật ký Đông Sơn, góp phần làm phong phú các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân.

  • TRẦN HOÀNG

    (Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
    Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)

  • LÊ KHAI

    "Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.

  • NGUYÊN HƯƠNG    

    1. Có nhiều cách để người ta nói về Tết. Đó là một dịp để con người nghỉ ngơi, gặp gỡ, hàn huyên, và dù có được chờ đợi hay không thì Tết vẫn tới.

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG

    Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BA   

    Mùa Xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay đó là những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), trên cơ sở nghiên cứu về trí thức người Việt từ phương diện xã hội học lịch sử, GS. Trịnh Văn Thảo xếp Nguyễn Vỹ vào thế hệ thứ 3 (thế hệ 1925) trong số 222 nhân vật thuộc ba thế hệ trí thức Việt Nam (1862, 1907 và 1925)(1).