BÙI VIỆT THẮNG
(Đọc Thuyền trăng - Tập thơ của Hồ Thế Hà, Nxb. Văn học, 2013)
1.
Sở dĩ tôi gọi Thuyền trăng của Hồ Thế Hà là Thuyền tình vì cả tập thơ tràn trề chữ “tình”. Không chỉ có chữ tình người mà còn có cả chữ tình của thiên nhiên, sự vật: “Thuyền trăng thành thuyền ái ân” (Thuyền trăng), “Ngủ đi trăng nước mặp tình” (Nến tình), “Sông nhân tình hóa giải mọi bi ai” (Sông Hương), “Tình yêu nào cũng từ cỏ sinh sôi” (Gửi Whitman - lá cỏ), “Nến tình hao khuyết sương sa hao chờ” (Nến tình). Mười tám câu thơ (trong mười ba bài thơ) chở nặng một chữ tình thì có đến mười ba chữ tình gắn với con người: “Tình yêu lứa đôi xóa tôi bằng em” (Phân thân), “Tình yêu muộn phiền có tôi bằng em” (Phân thân), “Có một mối tình vừa gửi xuống dòng Hương” (Tản mạn)… Sở dĩ tôi gọi Thuyền trăng của Hồ Thế Hà là Thuyền tình vì cái tình của người thơ là cái tình của người hào hiệp - lãng du như chất men say sống, men say làm việc, men say sáng tác thơ. Có lẽ gọi Hồ Thế Hà là “người thơ” thì rõ thần thái hơn là “người văn” (dù cho anh có đến sáu cuốn sách in riêng thuộc dạng nghiên cứu, phê bình văn chương). Sở dĩ tôi gọi Thuyền trăng của Hồ Thế Hà là Thuyền tình vì “chữ nghĩa” của thơ đẫm tình, đẫm nghĩa. Có nhiều bài thơ anh viết tặng các nghệ sĩ, bạn bè như: Thuyền trăng (tặng họa sĩ Bửu Chỉ), Phân thân (tặng Lê Huy Bắc), Cảm thức Phùng Quán (có thể coi là tặng nhà văn Phùng Quán), Ngẫu cảm Chế Lan Viên (có thể coi là tặng nhà thơ Chế Lan Viên), Hư vô (tặng nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch), Cổ điển (tặng nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo), Mắc nợ (tặng Phạm Xuân Nguyên), Cảm thức Trịnh Công Sơn (có thể coi là tặng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn), Tờ lịch (tặng nhà thơ Thanh Thảo). Những bài thơ Hồ Thế Hà viết tặng đồng nghiệp thường khắc khoải về cái gọi là “sứ mạng - định mệnh” của người nghệ sĩ trong bất kì thời đại nào: “Ông viết trên giấy có kẻ giòng niềm vui, nỗi đau/ Dù tình ca, du ca, bi ca hay hùng ca cũng thế/ Một niềm tin da diết con người” (Cảm thức Phùng Quán). Hồ Thế Hà không cao giọng trong thơ, anh như tri âm tri kỉ của độc giả; viết là để giãi bày và chia sẻ, cảm thông để hòa đồng và hòa điệu.
2.
Cảm xúc thơ về đời sống trong thơ Hồ Thế Hà thuộc dạng thức “phức cảm”. Nói cách khác thơ Hồ Thế Hà đa dạng về mĩ cảm. Không phải cứ là sống nhiều, trải nghiệm nhiều đến kinh lịch thì con người mới thể nghiệm sự phức cảm trong tri nhận thế giới mà ngay khi còn non trẻ, ở thời đại hiện sinh này, chỉ mới mười sáu tuổi mà một thiếu nữ vẫn có thể “Và sẽ qua nhiều phức cảm rối bời” (Lặng lẽ tuổi mười sáu con gái tôi). Nhưng đó là trực cảm vì tình máu mủ mách bảo nhà thơ nhìn thấy cái ranh giới của sự non nớt và lớn khôn qua “Đường biên trẻ thơ - thiếu nữ”. Nhưng có cái “phức cảm” mơ hồ hơn khi nhà thơ “thiền” thế giới chung quanh “Tôi đứng bên gốc bồ đề/ Nhìn những chiếc lá lìa cành/ Xoay theo hình trái tim/ Rơi không thành tiếng”. Từ chiếc lá bồ đề mà ngẫm thấy “Hiện trong xác xác bồ đề/ Đoàn người nối tiếp lặng đau/ Theo nhau về cõi nào/ Những bước chân tứa máu” (Trong xác lá bồ đề). Tôi cứ nghĩ, không biết có đúng không, phức cảm thơ giống như là chủ nghĩa lập thể trong hội họa vậy? Tính chất “phức cảm” trong thơ Hồ Thế Hà không chủ yếu nhướng tới hiện hữu, hiện sinh của cuộc đời mà chủ yếu hướng tới cõi hư vô của nó. Thơ Hồ Thế Hà viết ở thời hiện tại, hôm nay, đáng lí cái cảm hứng thế sự - hiện sinh phải ngự trị. Nhưng không! Thi hứng của nhà thơ lại hướng về cái “Hư vô”, “Vô minh”, “Vô thường”, “Hư không”, “Vô thức”, “Vô nghĩa”, “Vô hạn” kiểu như: “Vọng lại từ hư vô” (Trong xác lá bồ đề), “Những tứ thơ trốn ở hư vô” (Những tứ thơ tìm lại), “Hư vô tháng ngày tạ từ phía trước” (Tờ lịch), “Từ tiền kiếp từ cõi vô minh” (Những câu hỏi), “Hiện hữu và vô minh/ Có và không” (Những khu vườn cổ tích), “Vô thường một đóa” Hoàng gửi lại” và “Tình yêu vô hạn mấy cõi người” (Khóc Hoàng), “Thiên thai, Địa đàng giờ đã hư không” (Cảm thức Trịnh Công Sơn), “Tiếng của vô thức hiện về” (Những câu hỏi), “Ta vô nghĩa, ta vô thường biết mấy/ Vừa tỉnh cơn mơ hồn đã hư vô” (Hư vô)… Vì sao nhiều “Hư”, nhiều “Vô” như thế? Tôi thử tự lí giải, chẳng hiểu nhà thơ có suy tư như thế không? Viết nhiều về cái “Hư”, “Vô” như thế, có lẽ là nhà thơ muốn bằng cách này hay cách khác trốn vào đó để hòng thoát khỏi một thế giới hiện hữu sặc sụa cái “Vô cảm”, vì “Vô cảm tê liệt các giác quan” (Cứu rỗi). Có là tiêu cực, yếm thế không khi viết như vậy? Tôi nghĩ đấy là cách phóng chiếu, giải thoát - một năng lực mà chỉ có nghệ thuật, nhất là thơ ca - mới trợ giúp con người được đắc lực hơn tất cả mọi trợ lực khác trên con đường đau khổ đi tìm chân lí.
3.
Nói đến thơ là nói đến chữ và nghĩa. Đỗ Lai Thúy trong Lời giới thiệu tập thơ Thuyền trăng có khen: “Một ngôn ngữ thơ chỉ một chữ mà nhiều bóng chữ (bóng sáng, bóng sẫm và cả bóng thức), một ngữ nghĩa không tầng mà đa tầng”. Đấy là chơi chữ khi khen, chê người khác. Tôi thì trái lại, thấy chữ nghĩa trong thơ Hồ Thế Hà đẹp, nhưng giản dị (có lẽ cái đẹp là sự giản dị!). Chẳng hạn “Tặng nhau nụ nhớ làm gì/ Hoa tròn búp đợi còn chi đêm dài” (Nến tình). Nhà thơ Thúy Bắc thì viết: “Rút sợi thương/ Chắp mái lợp/ Rút sợi nhớ/ Đan vòm xanh” (Sợi nhớ sợi thương), còn Hồ Thế Hà thì viết “nụ nhớ”. Tôi không thấy “bóng chữ”, cũng chẳng thấy “bóng sáng, bóng sẫm và cả bóng thức” đâu cả. Chỉ thấy một sự giản dị, dung dị, quen thân, gần gũi mà thôi. Những câu thơ sau tôi cho là hay (và nhiều người cũng cho như thế): “Hoa sữa nồng nàn hôn tôi bằng hương/ Hồ Tây huyền ảo ôm tôi bằng đêm” (Phân thân), tìm mãi mà không thấy “bóng chữ” đâu! Hóa ra có người thích làm cho rắc rối những điều không cần rắc rối, còn chân lí thì bao giờ cũng giản dị. Đôi khi chợt nghĩ, hay là mình “bảo thủ”, thậm chí “cũ” rồi trước cái ào ạt của cơn sốt “hậu hiện đại”?! Nhưng tĩnh tâm lại thấy cái mới không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó chắc chắn phải mọc lên từ một cội rễ bền sâu nào đó của truyền thống.
Phải nói lại rằng ngôn ngữ thơ mà Hồ Thế Hà “chế tác” ra không đơn giản. Tôi cứ hình dung thi sĩ như người nấu rượu có nghề, có cái cách chưng cất cũng từ nước, từ ngũ cốc, nhưng có một bí truyền gì đó mà sản phẩm làm ra hơn người khác. Thế thôi! Nhưng bí truyền đó là gì vậy? Tôi cố đi tìm nó, nhưng xin thưa trước là có thể cái tôi tìm ra cũng có khi “cũ như trái đất”. Tôi đã ngồi hàng giờ trước một câu thơ (thực ra là hai chữ thơ thôi): “Ngủ đi trăng nước mặp tình/ Mai lên đỉnh Ngự soi mình vào sông” (Nến tình). Gọi điện cho nhà thơ xứ Huế mấy lần không được, định bụng hỏi cho ra cái chữ “mặp” đi với chữ “tình” thành ra “mặp tình”. Không hỏi được thì cứ phép “suy bụng ta ra bụng người” vậy (nghĩ mãi rồi cũng ngộ ra: mặp là đầy, nhưng “mặp tình” thì gợi hơn, ấn tượng hơn, độc đáo hơn “đầy tình”). Hồ Thế Hà có hơn một lần viết về “tứ thơ” (theo thi sĩ Xuân Diệu thì việc tìm “tứ thơ” khó khăn và kì thú nhất đối với sáng tạo thơ ca) trong hai bài Mỗi ban mai và Những tứ thơ tìm lại. Có người tìm ra tứ thơ trong đêm khuya, mơ màng giữa mộng và thực (như nhà thơ Hoàng Cầm đã nói về sự xuất hiện tứ thơ Lá diêu bông), có người tìm ra tứ thơ bằng sự trải nghiệm thế thái nhân tình, như trường hợp nhà thơ Xuân Diệu viết bài thơ Lệ. Hồ Thế Hà giản dị hơn “Tôi tìm tứ thơ mỗi ban mai/ Vì đó là lúc tĩnh lặng, tinh khiết nhất/ Tứ thơ nằm im trong đất/ Trong hoa cỏ, trong vạn vật” (Mỗi ban mai). Hồ Thế Hà viết giản dị vậy sao có người khoác cho chữ nghĩa thơ lắm cái “bóng” đến thế! Trong thơ Hồ Thế Hà rất nhiều trăng, nhiều đến thành một “thuyền trăng”. Đọc Hồ Thế Hà, tôi “cảnh giác” xem anh có học theo Hàn Mặc Tử khi viết về trăng không? Thấy: không! Tôi tra lại thật kĩ Chơi giữa mùa trăng và các bài thơ khác về trăng như: Uống trăng, Sáng trăng, Trăng vàng trăng ngọc, Ngủ với trăng, Say trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Một miệng trăng, Một nửa trăng, Vầng trăng, Ưng trăng của thi sĩ Hàn Mặc Tử hòng để tìm ra một dấu vết dù mỏng mờ trong thơ Hồ Thế Hà. Nhưng thấy: không! Thế là tôi yên tâm đi tìm trăng riêng của Hồ Thế Hà, vì nếu nhan đề tập thơ là Thuyền trăng, như tôi đã nói ở trên, chính nó chở Thuyền tình (đại thi hào Nguyễn Du viết “Thuyền tình vừa ghé tới nơi/ Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ”). Tôi tìm thấy chữ và nghĩa của thơ cả trong hình ảnh trăng mà thi sĩ sáng tạo. Có hai bài thơ nhan đề Thuyền trăng, Bến trăng mơ và mười tám câu thơ có chữ trăng trong tập thơ của Hồ Thế Hà. Tôi thích những câu thơ có trăng trong thơ Hồ Thế Hà như: “Lời thề nguyện vầng trăng lữ thứ” (Tản mạn), “Giấc mơ xé vụn vầng trăng” (Hư vô), “Ngủ đi trăng nước mặp tình” (Nến tình), và ba câu thơ có trăng trong một bài thơ “Thành chiếc thuyền trăng neo giữa thiên hà”, “Thuyền trăng thành thuyền ái ân”, “Bồng bềnh theo dáng thuyền trăng” (Thuyền trăng).
4.
Ở tuổi lục thập, Hồ Thế Hà cũng như những người cùng trang lứa cho mình cái quyền được triết lí (hay nói vui như Vương Trí Nhàn là “quyền được hách”) trong đời và trong thơ. Nhưng thú thật, riêng tôi không thích triết lí, vì không khéo dễ rơi vào “triết lí vặt” (chữ dùng của Hoàng Ngọc Hiến). Khi nào Hồ Thế Hà viết thật tự nhiên thì ta thấy chất triết lí thấm thía, kiểu như: “Có cách chi để an ủi mẹ/ Dù chỉ một lời dịu ngọt/ Dù chỉ nhổ một sợi tóc sâu/ Một đường kim vụng về khi mắt Mẹ đã về chiều/ Ôi dáng ngồi bào thai tuổi 90 của Mẹ!” (Mẹ). Nhưng khi Hồ Thế Hà hơi “kiễng chân” một tí, thấy rơi ngay vào tư biện, kiểu như: “Người ta không thể tìm lại dấu chân mình trên cát/ Khi sóng cuốn đi” (Cứu rỗi); hoặc “Con người luôn phản động sự dối trá/ Yêu chân lí như một nô bộc tôn giáo” (Trở về tâm linh). Không phải tôi viết như thế để cân bằng có khen có chê, mà như người ta nói thì một thúng gạo ngon vẫn không tránh khỏi đôi ba hạt sạn. Vậy thì “đành lòng vậy cầm lòng vậy”. Tôi vẫn tự coi mình là một người ngưỡng mộ và yêu quý Hồ Thế Hà - nhà giáo, nhà phê bình văn chương, nhà thơ và trên hết là một người bạn ân tình.
B.V.T
(SH294/08-13)
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.
HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.
HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)
NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...
TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)
HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)
NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)
PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).
NGUYỄN THANH MỪNG Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.
NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.
NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.
VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…
VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.
TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)
TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.
BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.