BÙI VIỆT THẮNG
(Đọc Thuyền trăng - Tập thơ của Hồ Thế Hà, Nxb. Văn học, 2013)
1.
Sở dĩ tôi gọi Thuyền trăng của Hồ Thế Hà là Thuyền tình vì cả tập thơ tràn trề chữ “tình”. Không chỉ có chữ tình người mà còn có cả chữ tình của thiên nhiên, sự vật: “Thuyền trăng thành thuyền ái ân” (Thuyền trăng), “Ngủ đi trăng nước mặp tình” (Nến tình), “Sông nhân tình hóa giải mọi bi ai” (Sông Hương), “Tình yêu nào cũng từ cỏ sinh sôi” (Gửi Whitman - lá cỏ), “Nến tình hao khuyết sương sa hao chờ” (Nến tình). Mười tám câu thơ (trong mười ba bài thơ) chở nặng một chữ tình thì có đến mười ba chữ tình gắn với con người: “Tình yêu lứa đôi xóa tôi bằng em” (Phân thân), “Tình yêu muộn phiền có tôi bằng em” (Phân thân), “Có một mối tình vừa gửi xuống dòng Hương” (Tản mạn)… Sở dĩ tôi gọi Thuyền trăng của Hồ Thế Hà là Thuyền tình vì cái tình của người thơ là cái tình của người hào hiệp - lãng du như chất men say sống, men say làm việc, men say sáng tác thơ. Có lẽ gọi Hồ Thế Hà là “người thơ” thì rõ thần thái hơn là “người văn” (dù cho anh có đến sáu cuốn sách in riêng thuộc dạng nghiên cứu, phê bình văn chương). Sở dĩ tôi gọi Thuyền trăng của Hồ Thế Hà là Thuyền tình vì “chữ nghĩa” của thơ đẫm tình, đẫm nghĩa. Có nhiều bài thơ anh viết tặng các nghệ sĩ, bạn bè như: Thuyền trăng (tặng họa sĩ Bửu Chỉ), Phân thân (tặng Lê Huy Bắc), Cảm thức Phùng Quán (có thể coi là tặng nhà văn Phùng Quán), Ngẫu cảm Chế Lan Viên (có thể coi là tặng nhà thơ Chế Lan Viên), Hư vô (tặng nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch), Cổ điển (tặng nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo), Mắc nợ (tặng Phạm Xuân Nguyên), Cảm thức Trịnh Công Sơn (có thể coi là tặng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn), Tờ lịch (tặng nhà thơ Thanh Thảo). Những bài thơ Hồ Thế Hà viết tặng đồng nghiệp thường khắc khoải về cái gọi là “sứ mạng - định mệnh” của người nghệ sĩ trong bất kì thời đại nào: “Ông viết trên giấy có kẻ giòng niềm vui, nỗi đau/ Dù tình ca, du ca, bi ca hay hùng ca cũng thế/ Một niềm tin da diết con người” (Cảm thức Phùng Quán). Hồ Thế Hà không cao giọng trong thơ, anh như tri âm tri kỉ của độc giả; viết là để giãi bày và chia sẻ, cảm thông để hòa đồng và hòa điệu.
2.
Cảm xúc thơ về đời sống trong thơ Hồ Thế Hà thuộc dạng thức “phức cảm”. Nói cách khác thơ Hồ Thế Hà đa dạng về mĩ cảm. Không phải cứ là sống nhiều, trải nghiệm nhiều đến kinh lịch thì con người mới thể nghiệm sự phức cảm trong tri nhận thế giới mà ngay khi còn non trẻ, ở thời đại hiện sinh này, chỉ mới mười sáu tuổi mà một thiếu nữ vẫn có thể “Và sẽ qua nhiều phức cảm rối bời” (Lặng lẽ tuổi mười sáu con gái tôi). Nhưng đó là trực cảm vì tình máu mủ mách bảo nhà thơ nhìn thấy cái ranh giới của sự non nớt và lớn khôn qua “Đường biên trẻ thơ - thiếu nữ”. Nhưng có cái “phức cảm” mơ hồ hơn khi nhà thơ “thiền” thế giới chung quanh “Tôi đứng bên gốc bồ đề/ Nhìn những chiếc lá lìa cành/ Xoay theo hình trái tim/ Rơi không thành tiếng”. Từ chiếc lá bồ đề mà ngẫm thấy “Hiện trong xác xác bồ đề/ Đoàn người nối tiếp lặng đau/ Theo nhau về cõi nào/ Những bước chân tứa máu” (Trong xác lá bồ đề). Tôi cứ nghĩ, không biết có đúng không, phức cảm thơ giống như là chủ nghĩa lập thể trong hội họa vậy? Tính chất “phức cảm” trong thơ Hồ Thế Hà không chủ yếu nhướng tới hiện hữu, hiện sinh của cuộc đời mà chủ yếu hướng tới cõi hư vô của nó. Thơ Hồ Thế Hà viết ở thời hiện tại, hôm nay, đáng lí cái cảm hứng thế sự - hiện sinh phải ngự trị. Nhưng không! Thi hứng của nhà thơ lại hướng về cái “Hư vô”, “Vô minh”, “Vô thường”, “Hư không”, “Vô thức”, “Vô nghĩa”, “Vô hạn” kiểu như: “Vọng lại từ hư vô” (Trong xác lá bồ đề), “Những tứ thơ trốn ở hư vô” (Những tứ thơ tìm lại), “Hư vô tháng ngày tạ từ phía trước” (Tờ lịch), “Từ tiền kiếp từ cõi vô minh” (Những câu hỏi), “Hiện hữu và vô minh/ Có và không” (Những khu vườn cổ tích), “Vô thường một đóa” Hoàng gửi lại” và “Tình yêu vô hạn mấy cõi người” (Khóc Hoàng), “Thiên thai, Địa đàng giờ đã hư không” (Cảm thức Trịnh Công Sơn), “Tiếng của vô thức hiện về” (Những câu hỏi), “Ta vô nghĩa, ta vô thường biết mấy/ Vừa tỉnh cơn mơ hồn đã hư vô” (Hư vô)… Vì sao nhiều “Hư”, nhiều “Vô” như thế? Tôi thử tự lí giải, chẳng hiểu nhà thơ có suy tư như thế không? Viết nhiều về cái “Hư”, “Vô” như thế, có lẽ là nhà thơ muốn bằng cách này hay cách khác trốn vào đó để hòng thoát khỏi một thế giới hiện hữu sặc sụa cái “Vô cảm”, vì “Vô cảm tê liệt các giác quan” (Cứu rỗi). Có là tiêu cực, yếm thế không khi viết như vậy? Tôi nghĩ đấy là cách phóng chiếu, giải thoát - một năng lực mà chỉ có nghệ thuật, nhất là thơ ca - mới trợ giúp con người được đắc lực hơn tất cả mọi trợ lực khác trên con đường đau khổ đi tìm chân lí.
3.
Nói đến thơ là nói đến chữ và nghĩa. Đỗ Lai Thúy trong Lời giới thiệu tập thơ Thuyền trăng có khen: “Một ngôn ngữ thơ chỉ một chữ mà nhiều bóng chữ (bóng sáng, bóng sẫm và cả bóng thức), một ngữ nghĩa không tầng mà đa tầng”. Đấy là chơi chữ khi khen, chê người khác. Tôi thì trái lại, thấy chữ nghĩa trong thơ Hồ Thế Hà đẹp, nhưng giản dị (có lẽ cái đẹp là sự giản dị!). Chẳng hạn “Tặng nhau nụ nhớ làm gì/ Hoa tròn búp đợi còn chi đêm dài” (Nến tình). Nhà thơ Thúy Bắc thì viết: “Rút sợi thương/ Chắp mái lợp/ Rút sợi nhớ/ Đan vòm xanh” (Sợi nhớ sợi thương), còn Hồ Thế Hà thì viết “nụ nhớ”. Tôi không thấy “bóng chữ”, cũng chẳng thấy “bóng sáng, bóng sẫm và cả bóng thức” đâu cả. Chỉ thấy một sự giản dị, dung dị, quen thân, gần gũi mà thôi. Những câu thơ sau tôi cho là hay (và nhiều người cũng cho như thế): “Hoa sữa nồng nàn hôn tôi bằng hương/ Hồ Tây huyền ảo ôm tôi bằng đêm” (Phân thân), tìm mãi mà không thấy “bóng chữ” đâu! Hóa ra có người thích làm cho rắc rối những điều không cần rắc rối, còn chân lí thì bao giờ cũng giản dị. Đôi khi chợt nghĩ, hay là mình “bảo thủ”, thậm chí “cũ” rồi trước cái ào ạt của cơn sốt “hậu hiện đại”?! Nhưng tĩnh tâm lại thấy cái mới không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó chắc chắn phải mọc lên từ một cội rễ bền sâu nào đó của truyền thống.
Phải nói lại rằng ngôn ngữ thơ mà Hồ Thế Hà “chế tác” ra không đơn giản. Tôi cứ hình dung thi sĩ như người nấu rượu có nghề, có cái cách chưng cất cũng từ nước, từ ngũ cốc, nhưng có một bí truyền gì đó mà sản phẩm làm ra hơn người khác. Thế thôi! Nhưng bí truyền đó là gì vậy? Tôi cố đi tìm nó, nhưng xin thưa trước là có thể cái tôi tìm ra cũng có khi “cũ như trái đất”. Tôi đã ngồi hàng giờ trước một câu thơ (thực ra là hai chữ thơ thôi): “Ngủ đi trăng nước mặp tình/ Mai lên đỉnh Ngự soi mình vào sông” (Nến tình). Gọi điện cho nhà thơ xứ Huế mấy lần không được, định bụng hỏi cho ra cái chữ “mặp” đi với chữ “tình” thành ra “mặp tình”. Không hỏi được thì cứ phép “suy bụng ta ra bụng người” vậy (nghĩ mãi rồi cũng ngộ ra: mặp là đầy, nhưng “mặp tình” thì gợi hơn, ấn tượng hơn, độc đáo hơn “đầy tình”). Hồ Thế Hà có hơn một lần viết về “tứ thơ” (theo thi sĩ Xuân Diệu thì việc tìm “tứ thơ” khó khăn và kì thú nhất đối với sáng tạo thơ ca) trong hai bài Mỗi ban mai và Những tứ thơ tìm lại. Có người tìm ra tứ thơ trong đêm khuya, mơ màng giữa mộng và thực (như nhà thơ Hoàng Cầm đã nói về sự xuất hiện tứ thơ Lá diêu bông), có người tìm ra tứ thơ bằng sự trải nghiệm thế thái nhân tình, như trường hợp nhà thơ Xuân Diệu viết bài thơ Lệ. Hồ Thế Hà giản dị hơn “Tôi tìm tứ thơ mỗi ban mai/ Vì đó là lúc tĩnh lặng, tinh khiết nhất/ Tứ thơ nằm im trong đất/ Trong hoa cỏ, trong vạn vật” (Mỗi ban mai). Hồ Thế Hà viết giản dị vậy sao có người khoác cho chữ nghĩa thơ lắm cái “bóng” đến thế! Trong thơ Hồ Thế Hà rất nhiều trăng, nhiều đến thành một “thuyền trăng”. Đọc Hồ Thế Hà, tôi “cảnh giác” xem anh có học theo Hàn Mặc Tử khi viết về trăng không? Thấy: không! Tôi tra lại thật kĩ Chơi giữa mùa trăng và các bài thơ khác về trăng như: Uống trăng, Sáng trăng, Trăng vàng trăng ngọc, Ngủ với trăng, Say trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Một miệng trăng, Một nửa trăng, Vầng trăng, Ưng trăng của thi sĩ Hàn Mặc Tử hòng để tìm ra một dấu vết dù mỏng mờ trong thơ Hồ Thế Hà. Nhưng thấy: không! Thế là tôi yên tâm đi tìm trăng riêng của Hồ Thế Hà, vì nếu nhan đề tập thơ là Thuyền trăng, như tôi đã nói ở trên, chính nó chở Thuyền tình (đại thi hào Nguyễn Du viết “Thuyền tình vừa ghé tới nơi/ Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ”). Tôi tìm thấy chữ và nghĩa của thơ cả trong hình ảnh trăng mà thi sĩ sáng tạo. Có hai bài thơ nhan đề Thuyền trăng, Bến trăng mơ và mười tám câu thơ có chữ trăng trong tập thơ của Hồ Thế Hà. Tôi thích những câu thơ có trăng trong thơ Hồ Thế Hà như: “Lời thề nguyện vầng trăng lữ thứ” (Tản mạn), “Giấc mơ xé vụn vầng trăng” (Hư vô), “Ngủ đi trăng nước mặp tình” (Nến tình), và ba câu thơ có trăng trong một bài thơ “Thành chiếc thuyền trăng neo giữa thiên hà”, “Thuyền trăng thành thuyền ái ân”, “Bồng bềnh theo dáng thuyền trăng” (Thuyền trăng).
4.
Ở tuổi lục thập, Hồ Thế Hà cũng như những người cùng trang lứa cho mình cái quyền được triết lí (hay nói vui như Vương Trí Nhàn là “quyền được hách”) trong đời và trong thơ. Nhưng thú thật, riêng tôi không thích triết lí, vì không khéo dễ rơi vào “triết lí vặt” (chữ dùng của Hoàng Ngọc Hiến). Khi nào Hồ Thế Hà viết thật tự nhiên thì ta thấy chất triết lí thấm thía, kiểu như: “Có cách chi để an ủi mẹ/ Dù chỉ một lời dịu ngọt/ Dù chỉ nhổ một sợi tóc sâu/ Một đường kim vụng về khi mắt Mẹ đã về chiều/ Ôi dáng ngồi bào thai tuổi 90 của Mẹ!” (Mẹ). Nhưng khi Hồ Thế Hà hơi “kiễng chân” một tí, thấy rơi ngay vào tư biện, kiểu như: “Người ta không thể tìm lại dấu chân mình trên cát/ Khi sóng cuốn đi” (Cứu rỗi); hoặc “Con người luôn phản động sự dối trá/ Yêu chân lí như một nô bộc tôn giáo” (Trở về tâm linh). Không phải tôi viết như thế để cân bằng có khen có chê, mà như người ta nói thì một thúng gạo ngon vẫn không tránh khỏi đôi ba hạt sạn. Vậy thì “đành lòng vậy cầm lòng vậy”. Tôi vẫn tự coi mình là một người ngưỡng mộ và yêu quý Hồ Thế Hà - nhà giáo, nhà phê bình văn chương, nhà thơ và trên hết là một người bạn ân tình.
B.V.T
(SH294/08-13)
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?