NGUYỄN THÙY TRANG
1. Có người giấu nỗi buồn trong những giọt nước mắt đắng cay, có người giấu khổ đau qua muôn vạn tiếng cười. Có người lại đằng đẵng khắc khoải thế sự buốt giá bằng cách vo tròn trong câu chữ - như nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng. Đi từ Điệp ngữ tình, qua Họng đêm, đến Đầu non cuối bãi, tưởng đã chạm đến tận đáy khổ hạnh kiếp người, vậy mà Thương hoài thương hủy tiếp tục ám thị người đọc bằng sương khói điêu linh, rớm máu, tàn tro của một tâm hồn đầy thương tích… Tiếng thơ ấy, lần này, không chỉ là sự gào thét trong rã rời thân xác, mà còn lắng đọng một cõi tâm tư “bên góc trời đã xước”.
2. Với ba phần: “buồn vui chi cũng tím bầm nhớ thương”, “thương dân ca, nhớ hò khoan quê mình” và “những điều không nói là thường rất đau”… tập thơ đã mang đến cho người đọc dư âm miên man trong cung bậc trữ tình trầm buồn. Thi thoảng có những note nhạc huyền mơ, đượm yêu, đượm thương, thể hiện cái nhìn đa tình của người nghệ sĩ trước cuộc sống: “ta cắn mùa xuân thơm nức môi em/ Giêng non lắm đất trời non nả lắm/ mai vàng áo, má hồng đào thắm/ tuổi hồn nhiên biêng biếc cỏ xanh đồi” (Giêng non); “ngày ngoan hiền như cỏ/ xanh lối mòn không tên/ lang thang trong chiều nhớ/ môi bật thành tên em” (Viết trong ngày lễ tình nhân). Tuy nhiên, tone điệu ấy lại mỏng mảnh như một làn sương vương vất giữa bình minh, như tia nắng le lói qua mây đen tịch mịch, chưa đủ sưởi ấm đã giãy giụa trong hoang liêu, chưa đủ hy vọng đã vụt thành ảo ảnh. Bởi, sau cùng, điều mà nhà thơ muốn phô diễn trong thi tập này đâu đơn thuần chỉ là chuyện lứa đôi yêu nhau, gùng ghinh cảm xúc giữa đất trời. Ở một tầng siêu linh, nhà thơ đi tìm con người trong ý nghĩa con người, giải mã cái trúc trắc trong hiện tồn nghiệt ngã. Đâu đó S. Freud từng nói, “sống là sự tịnh tiến đến cái chết”, Nguyễn Lãm Thắng ý thức rất rõ về cái chết này. Thậm chí là ám ảnh! Tiệm cận đến lãnh địa của “thế giới bên kia” cũng là tiệm cận đến chân lý, truy nguyên mục đích sống trong hành trình thi ca của họ Nguyễn.
Chủ thể trữ tình vì thế cũng đổi danh xưng. Trước đây, Nguyễn Lãm Thắng từng hay đối thoại với người đọc bằng tín hiệu “anh”: “Anh gom cô đơn nối lại những giọt buồn/ Trong đôi mắt chiêm bao của từng đêm giông bão”, rồi “Anh nằm nghe xanh mùa lên tiếng thở/ Từ trong hồn phố nhỏ thân quen”, hay“Mùa đổi dạ lá run cành hối hả/ Anh khai sinh cho đá giọt thơ mềm”… Nhưng bây giờ, hiếm lắm trong Thương hoài thương hủy mới tìm được một tự tình xưng “anh”. Chỉ có “tôi” hoặc có “ta”. “Ta hóa vàng xuân trong gió thưa/ Lòng ta sót lại hột tro thừa” (Nguyên Tiêu); “tôi mất đó, tôi còn đây/ giữa hư vô của ngàn cây tôi về” (Hũng Huyện); “tôi thấy người đang chảy ra/ mặt trời tụ máu trên da thịt mình” (dưới rặng tre); “ta nghe cuống họng vô cùng đắng/ nuốt bóng hoàng hôn lạnh thấu xương”, “ta nghe thân thể tan trăm mảnh/ Vất vưởng khe sâu phố thị buồn” (Bao La Lạnh)… Sự đổi ngôi này, theo tôi, là một điều đặc biệt, khiến Thương hoài thương hủy lắng đọng hơn trong chiều sâu chiêm nghiệm, triết lý. Cái ồn ào, sôi nổi, rạo rực của những năm tháng tuổi trẻ như đã gạn lọc qua lớp bụi thời gian; nhường lại góc phòng thinh côi, nơi cái “tôi” và cái “ta” luân phiên minh biện lẽ nhân sinh.
Nhà thơ cũng không ngừng định nghĩa về mình. Tôi là ai? “Tôi như là một bóng ma/ Trượt trên phố vắng thế là tôi trôi” (đường về và lạnh); “Tôi như con dế trong hang/ ngó ra ngoài thấy mưa đang chuyền cành” (mưa vô tư). Tôi từ đâu tới? “Tôi cũng đã trở thành người ở đậu/ trên nẻo buồn với máu lạnh xương khô” (ngó ngang mùa cũ). Tôi đang làm gì? “Tôi ngồi sờ những đốt xương/ đốt xương ngắn mà dài hơn tuổi mình/ lặng ngồi sờ khói tâm linh/ thấy yêu thương hiện nguyên hình khổ đau” (mắt hoài hương rụng); “Ta uống như chưa từng biết rượu/ một mình vốc cạn cả mùa ngâu/ ngoài kia bạt cánh chim trời lạ/ nỗi nhớ nằm nghe điệu hát nhàu” (vọng phương Nam). Tôi như thế nào? “Lòng tôi như dép đứt quai/ Tim tôi một miếng mẻ chai găm vào” (mưa Quan Âm)); “sông tự tách mình thành nhiều nhánh rẽ/ để buồn vui năm tháng chảy quanh co/ ta cũng thấy đời ta như dòng lệ/ nóng vô thường và lạnh lẽo hư vô” (đời sông). Tôi cảm giác sao? “Tôi buồn xo, cỏ buồn xo/ giọt mồ hôi lạnh trên gò má tôi/ triền lau đã nhuốm sương mù/ tôi nghe tôi cũng từ từ tan ra” (chiều trên khư mộ); “tôi ngồi ngó khói nhang bay/ …và tôi chắc chắn lưu vong lâu rồi/ tôi rờ từng đốt xương tôi/ càng thêm cảm kích từng hơi thở dài” (một mình ngồi nghe mùi nhang rất thơm trong đêm).
Xâu chuỗi những “cái tôi” và “cái ta” rạn vỡ qua từng câu thơ, sẽ nhận thấy, Nguyễn Lãm Thắng đã làm một cuộc phẫu thuật tự hủy hoại xác thân. “Tôi ngồi đốt những ngón tay/ mười dòng máu đỏ vụt bay lên trời”, “Tôi ngồi mài lưỡi thành dao/ đâm vào tôi máu ào ào tuôn rơi” (tôi ngồi); “tôi về ngồi với phận tôi/ lấy chưn nhang xỉa rối bời tim gan” (tôi ngồi xỉa cái phận tôi). Phải chăng, làm đau mình là cách thức để cảm nhận bản thân còn tồn tại? Còn nhói buốt, biết giận, biết buồn, là còn sinh thể phập phồng trái tim trong ngực. Dẫu cho, sau mỗi lần “hành hạ” mình, người thơ lại thổn thức “em như con thú hoang gặm nhấm vết thương đọa đày”.
Riết róng trong thi tập còn là nỗi đọa đày giữa sự sống và cái chết. Định lượng thời gian trở thành một dấu mốc để xác minh ranh giới này, nên được lặp lại thường xuyên. “Bốn chục năm tròn gom nước mắt/ ngậm ngùi mẹ khóc cuộc tang thương/ môi khô máu thấm cau trầu đỏ/ tiếng thở nào buông cũng đoạn trường” (Khuya trắng); “bốn mươi năm lẻ thâm quầng mắt/ ngó bóng quê nhà ôi xác xơ/ hoa gạo cháy màu tràn ngập đất/ nỗi đau quặn thắt đến bao giờ” (chiều trên con nước cũ). Khi đã ngoại tứ tuần, Nguyễn Lãm Thắng chầm chậm bước sang cái dốc đời người trong tâm thế thành thực tự nhận mình là “một thằng lơ láo giữa bãi đời lênh đênh”, “đem nỗi buồn quảng cáo, bán nhớ và mua quên”. Phải, bởi với nhà thơ, cuộc đời là một chuyến đi về nơi huyệt mộ. Thành ra, sống như phiêu bồng giữa miền thực - mộng, đôi lúc lại “thả nhẹ xuống đời một ngày vô ưu”. “An nhiên như vầng trăng/ sáng ngần trong gió bụi/ mênh mang cõi vĩnh hằng/ là đức tin không tuổi/ Vượt trên đỉnh hư không/ giữ tâm mình tự tại/ giới thuyết như dòng sông/ gập ghềnh và chảy mãi” (Chứng ngộ).
Trong “cuộc rong chơi khép bước đời lãng du ấy”, ý niệm “sắc - không” như một chứng ngộ. “Ta mới đó, mới đây, ta ẩn hiện/ tà dương rơi mái úa chiều ơi chiều” (mộng ảo). Hơi hướng thiền thấm sâu vào tâm tưởng, thể hiện độ chín trong trải nghiệm nhân sinh. Nhà thơ không hề sợ hãi trước quy luật “sinh trụ dị diệt”, trái lại sẵn sàng đón nhận bằng tâm thế tự tại, sống “một kiếp đòng đưa với sắc không”, “sanh ra là để chết/ có ai sống mãi đâu/ đã chết thì chấm hết/ khói nhang chung một màu” (tự nói với mình). Dường như, ý thức sự hữu hạn của kiếp người, nhà thơ thường có xu hướng dịch chuyển thời gian lên phía trước, đẩy đưa vào cõi phận hủy diệt. Vì thế, một miền tang thương, đổ nát, điêu linh giăng mắc trong thơ Nguyễn Lãm Thắng là điều dễ hiểu. “Tôi ngồi giữa cõi u minh/ thấy xương chưa rục thấy hình chưa tan/ thấy đời muôn nỗi ngổn ngang/ khói nhang này với nghĩa trang lạnh lùng” (đêm nóng). Vấy lên thơ một màu tang tóc; nhiều hình ảnh huyệt mộ, huyết lệ, mồ hoang, nghĩa trang… xuất hiện tần suất dày, khiến gam màu trong tập thơ khúc xạ khí lạnh, u uẩn. Ít nhiều sẽ khiến chúng ta gợi nhớ tới Điêu tàn của Chế Lan Viên. Nhưng nếu Điêu tàn ảo não trong lời than vong quốc, hoài về quá khứ với niềm bất lực đọa đày; thì Thương hoài thương hủy lại như bản hợp âm của ngàn ngàn lớp lớp nỗi đau khởi sinh từ sự tàn phá của thời gian, sự bạc bẽo của lòng người, sự thức nhận lẽ vô thường vũ trụ, vọng đến tương lai bằng buốt nhói xác thân tự hủy.
Dẫu biết, lá xanh rồi sẽ về cội, nhưng vẫn có gì đó bâng khuâng khi nghe “ta về”: “Ta về giữa bãi tha ma/ tru ba bảy tiếng gọi ta dưới mồ” (em non em nước, ta về), “ta về vui với cỏ cây thôi/ gió thành sông biển, mây thành núi/ thì tiếc nhau chi một tiếng cười” (ngồi chơi với cỏ). Dùng dằng chiều đi và chiều về, luôn ẩn hiện bóng hình tha nhân. Một lần nữa, cảm thức lưu vong trở thành sợi chỉ đỏ xuyên qua các tập thơ, để độc giả thức nhận hơn về sự nổi nênh của thế nhân. “Mười lăm năm lữ thứ/ trong cơn say ta về” (mười lăm năm mất ngủ); “hồn xơ xác mướp quặn đau/ cố hương chừ đã ngả màu tha hương” (xơ xác mướp); “Tóc còm cõi phận lênh đênh/ đã đôm đốm bạc nỗi mình xanh xao” (dọn vườn cuối năm); “Chiều qua phố mưa gầy rơi tí tách/ buồn miên man anh bước giữa quê người/ lòng chạnh nhớ câu hò khoan quê Mẹ/ như giọt máu hồng trong máu thịt em ơi” (nhớ Quảng Nam). Bỗng nhớ những ca từ của Trịnh - “chiều hôm thức dậy/ ngồi ôm tóc dài/ chập chờn lau trắng trong tay” (Chiếc lá thu phai).
Rã rời qua các chiều không gian, ở đâu, Nguyễn Lãm Thắng cũng thấy mình lạc lõng, bơ vơ, “thiếu quê hương”.“Đứng ngả mô rồi anh cũng thấy chơi vơi” (mưa bão Huế). Hình như, cô đơn cũng thuộc về bản năng của con người, giống như sống phải hít thở, ăn uống, ngủ nghỉ. Con người cảm thấy cô đơn nghĩa là vẫn đang nung nấu khát vọng được thấu cảm, giao tiếp, sẻ san. Và Nguyễn Lãm Thắng không ngừng mỏi mong được đối thoại, phân minh cùng tất cả mọi người. “Anh tan loãng với vi trùng/ và ôm trái đất vào trong xương mình” (lời một bài thơ sắp chết); “thèm người nói có người nghe/ thèm tưng tửng rượu, thèm lè nhè bia” (ừ thì em cứ đi). Trạng thái nửa tỉnh nửa mê, nửa say nửa ngà xác tín chân dung Nguyễn Lãm Thắng: Chối bỏ thực thể “bình thường” để đến với góc cạnh đa sự đa đoan của thế thời.
Đẩy mình vào vô biên, tưởng đâu sẽ khánh kiệt cả tình thân, nhưng không, những lúc tha nhân, hình bóng mẹ dãi dầu, chị tảo tần, vợ hiền thảo hiện lên như một điểm tựa để nhà thơ bấu víu, nương nhờ, trú ngụ. Chính vì thế, dù chẳng phải là người mộ đạo, nhưng theo Nguyễn Lãm Thắng, tôn giáo lớn nhất là đức nhân của con người. Không ai có thể định cư vĩnh viễn ở trần gian, tất cả chỉ là ở trọ. Cái còn lại sau khi trả hết cho hư không cát bụi là tình yêu thương - “người yêu người để biết trái tim đau” (trả lời giấc mộng).
3. Tinh thần chung của tập thơ là bất tuân quy luật, nó đúng với con người của Nguyễn Lãm Thắng, không muốn bị gò bó, ràng buộc, đóng khuôn trong mô phạm nào. Ngay từ bố cục thi phẩm, giữa các phần đã không có sự đồng đều (về số bài, số trang). Đến quy cách chính tả cũng bị nhà thơ gỡ bỏ, tiêu đề hay chữ cái đầu tiên của dòng nhiều khi không viết hoa. Rồi niêm luật, thể thơ phá cách, xen giữa những câu lục bát, lại lùi lũi đâu đó câu thất ngôn, tạo nên sự gập ghềnh khó tả. Sử dụng từ địa phương nhiều cũng dệt thành một mã ngôn ngữ riêng, giọng điệu rặt xứ Quảng, in ít lần pha thêm “tiếng Huế”, thể hiện lằn ranh của văn hóa vùng miền bằng một thái độ “phi trung tâm”. Có những bài rất ngắn, hai câu thơ đủ viên thành một bài. Có những bài dài dằng dặc, hai mươi câu rong ruổi qua hai trang, không một dấu chấm, không một nút enter xuống hàng, chỉ có nhịp phẩy đuổi bắt nhau qua từng con chữ, chan chát giọt mồ hôi, nghèn nghẹn miếng cơm của “thương ca ngày mùa”.
Hẳn nhiên thế mà thơ của Nguyễn Lãm có những khía cạnh rất đặc biệt, đó không phải là điệu valse mùa xuân hay sonate mùa thu, mà là lời tự tình thống thiết, khi hờn dỗi đời, khi nỉ non than. Đó là“trái tim còn bão lũ/ vỡ ra từng câu thơ”. Trong quá trình tư biện để tìm ra căn cốt chính mình giữa cuộc hiện sinh nhọc nhằn, Nguyễn Lãm Thắng đã “cho ta gặp nhau trong nghĩa loài người”…
N.T.T
(TCSH383/01-2021)
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.