NGÔ THỜI ĐÔN
Thừa Tuyên Thuận Hóa trong Hồng Đức Bản Đồ - Ảnh: wiki
Nếu không đi quá xa vào các thiên niên kỷ đầu của lịch sử dân tộc, thì cái mốc 1306-1307 là rất có ý nghĩa đối với Thuận Hóa: Công chúa Huyền Trân về làm vợ Chế Mân; Đại Việt có của sính lễ là hai châu Ô và Lý (Rí); Đoàn Nhữ Hài mang lệnh triều đình đổi tên hai châu này thành châu Thuận và châu Hóa... Trong ý thức của nhà nước Đại Việt lúc bấy giờ, cách đặt tên ấy hàm ý đây là vùng đất mới, hơn nữa đây là "đất dữ" - "Ô châu ác địa" cần phải "giáo hóa" cho "thuận mệnh".
![]() |
![]() |
![]() |
Ý thức thống trị ấy của nhà nước Đại Việt lúc bấy giờ là cần thiết đối với miền đất biên viễn. Song cư dân Thuận Hóa lúc bấy giờ (ở đây chỉ nói bộ phận cư dân người Việt) đã sống như thế nào? Lịch sử thì đã qua, các nhà nghiên cứu thì chỉ mới dự kiến cư dân sẽ sống theo hai đàng: một đàng "thuận" với ý thức thống trị, nghĩa là "hóa" được; còn đàng kia là sự tự phát buổi đầu, nhưng lại "thuận" và "hóa" tự nhiên theo "tính cách" "bản lĩnh" của cư dân Thuận Hóa. Đàng đầu có khả năng tạo thế bàn đạp cho các bước Nam tiến của dân tộc về sau; Đàng sau có triển vọng hun đúc tính cách, bản lĩnh của lớp người tiền phong để họ đi tới cho đến lúc dừng chân trên mũi Cà Mau. Nói một cách thô thiển, "thuận hóa" theo ý thức thống trị của nhà nước Đại Việt là trụ chân cho vững mà định canh, định cư; còn "thuận hóa" tự phát theo tính cách và bản lĩnh của cư dân Nam tiến là nhấc chân lên, tiếp tục Nam tiến.
Chặng lịch sử này của Thuận Hóa không phải đã dễ hiểu.
Khoảng 100 năm sau, Nguyễn Trãi viết Dư Địa Chí (nếu tác phẩm ra đời sau ngày kháng Minh thắng lợi thì Thuận Hóa đã sống 14 năm dưới chế độ Minh thuộc) ông đã có vài nhận định về tính cách người Thuận Hóa.
Hơn 100 năm sau nữa, Dương Văn An viết Ô Châu Cận Lục, cũng nhận định về thiên nhiên và con người Thuận Hóa.
Rồi hơn 100 năm sau nữa, Lê Quý Đôn viết Phủ Biên Tạp Lục lại cũng nêu nhận định về con người ở đây.
Trên 300 năm, cả ba tác giả, không ai nói khác ai về cư dân Thuận Hóa. Điều này, không hẳn là sự thừa kế vụng về của người viết sau mà vì qua nhiều chặng đường của lịch sử, cư dân Thuận Hóa vẫn giữ được cái gì trong tính cách như buổi mới định cư chăng?
Từ 1307 đến 1786, liên tiếp gần năm thế kỷ, Thuận Hóa được nhà nước phong kiến Việt Nam coi là đất biên cương. Tâm lý chung của cư dân vẫn là tiếp tục trả lời câu hỏi: định canh định cư hay tiếp tục Nam tiến? Định canh định cư thì phải thích ứng với đất lạ và tuân thủ mệnh lệnh triều đình, hòa vào khối cộng đồng dân tộc. Đến đây, câu hỏi sâu thẳm của Thuận Hóa đã hiện ra: Lớp cư dân Nam tiến tiếp tục hay lớp cư dân định canh định cư là giữ nguyên tính cách bản lĩnh của cư dân Thuận Hóa buổi đầu? Tìm hiểu Thuận Hóa xưa bỗng kéo theo việc tìm hiểu cộng đồng của cư dân Nam Bộ ngày xưa...
Bức chân dung vùng đất và con người Thuận Hóa đã được các nhà nghiên cứu phác thảo, ít nhiều thành công ở từng điểm, từng chặng hơn là thành công ở cả trường kỳ lịch sử. Các đề tài khảo cổ, nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn học ở vùng Thuận Hóa lâu nay, đã cống hiến thật nhiều và đang lần bước đi tới với kỳ vọng giải thích đầy đủ hệ thống vấn đề của một vùng đất mà mỗi chi tiết của hệ thống chỉ có thể nối liền hữu cơ với hệ thống chứ không bị khu trú hoặc gián đoạn như bấy lâu...
Ấy cũng là một mục tiêu quan trọng của ngành khoa học xã hội ở Thừa Thiên Huế.
N.T.Đ
(TCSH54/03&4-1993)
TRƯƠNG THỊ THUYẾTĂn là một biểu hiện của văn hóa. Nghiên cứu nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn của Huế là tìm ra những nét riêng biệt trong sắc thái văn hóa Huế.
THANH TÙNGVăn hoá tâm linh là một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của nhiều dân tộc trên thế giới. Với người Việt, từ xưa đến nay văn hóa tâm linh thể hiện ở tình cảm linh thiêng, ở niềm tin và sự tri ân của mọi người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất nước; các vị tiền hiền được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng; thể hiện sự kính trọng và cầu mong sự che chở của các vị thiên thần v.v…
TRẦN HÀ TRUNGCứ mỗi lần nghe tiếng trống vang khắp nước, nhất là ở Đống Đa lịch sử (mồng năm tháng giêng) lòng tôi rộn ràng từ những ngày bé nhỏ.
HỒ VĨNH Phóng sựTôi đứng trên nhà bia lăng Minh Mạng thì nghe kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đột ngột qua đời vì bệnh tim. Tôi bàng hoàng lặng người trong giây lát rồi đạp xe về Thế Miếu nơi công trình Kazik đang trùng tu.
TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.