AN ĐÔNG
Khi những hạt mưa cuối cùng của mùa đông đã ngớt trên mặt sông sóng sánh và những vạt nắng đã bắt đầu tràn đến trên đám lá cỏ tơ non, người ta biết từ đâu đó, mùa xuân đã nhẹ nhàng gõ cửa.
Festival Huế 2012 - Ảnh: Trường Giang
Và những chồi non mới nhú lung linh trong nắng mai mật ngọt như báo hiệu một năm mới đã đến với những mạch nguồn căng tràn sức sống. Huế đã có một năm chuyển mình trong dòng chảy luân phiên của đất trời, của nỗi miên man về một cuộc sống còn đó những lo toan nhưng cũng ngập tràn những niềm vui và nỗi rộn ràng tươi mới.
Năm 2012 đã khép lại nhưng cũng đã mở ra những con đường vẫn đây đó những gập ghềnh thách thức nối tiếp như để thử sức con người. Năm nay cũng là năm mà tình hình kinh tế của cả nước nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng vẫn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đã có những chỉ tiêu, mục tiêu phấn đấu của tỉnh về quốc kế dân sinh tuy cơ hồ không hoàn thành được, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực. Một số ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh phục hồi và tăng trưởng cao như du lịch, dịch vụ, đầu tư xây dựng, sản xuất công nghiệp,… Chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh ước đạt 109,5%; tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng xã hội đạt 21.273,8 tỷ đồng, đạt 99,8% kế hoạch năm; tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 465 triệu USD, tăng 22,23%. Tổng thu ngân sách chỉ trong 11 tháng đầu năm 2012 đã ước đạt 5.104,9 tỷ đồng, bằng 100,8% dự toán năm, tăng 62,6% so cùng kỳ; trong đó thu nội địa 3.050,9 tỷ đồng, bằng 91,74% DT, tăng 12,33%. Tổng chi ngân sách ước đạt 6.721,2 tỷ đồng, bằng 99,2% DT, tăng 46,91 % so cùng kỳ.
Những con số ấy, nếu mới thống kê ra thì trông thật khô khan, nhưng ẩn chứa đằng sau đó là cả một quá trình, một nỗ lực phấn đấu hết mình từ chính quyền cho đến mỗi người dân. Cuộc sống không ai cho mình cả, và mỗi người có lẽ cũng không thể một mình tạo nên cuộc sống mà đó là cái tâm thức muốn phát triển, muốn được thấy sự đổi thay tràn căng trên mỗi bước thời gian mà mình đi qua trong cuộc đời. Không dễ dàng gì cho một sự đổi thay thần kỳ mà cần có những chặng đường, cần có những mục tiêu và cả những giải pháp cụ thể để thực hiện. Và hơn nữa, mọi việc còn có sự đồng thuận của người dân. Và không gì hơn để có sự đồng thuận của người dân đối với những hoạch định, những chính sách đó là những hoạch định, những chính sách ấy phải hợp với lòng dân. Chẳng hạn việc vừa đưa vào hoạt động Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thừa Thiên Huế (Thua Thien Hue General Hospital) gần đây là một ví dụ. Bệnh viện có tổng vốn đầu tư trên 38 triệu USD (gần 800 tỷ đồng Việt Nam), với quy mô dự án 36.000 m2 sàn xây dựng/70.000 m2 mặt bằng toàn Bệnh viện và 500 giường bệnh. Có thể nói đây là một bệnh viện có quy mô lớn, và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân khu vực phía Bắc Thừa Thiên Huế cũng như một số vùng lân cận. Đây chính là niềm mong mỏi lớn của bao người dân nơi đây và sẽ góp phần giảm tải cho Bệnh viện Trung ương Huế cùng một số bệnh viện khác ở thành phố Huế. Thừa Thiên Huế cũng vừa tổ chức khánh thành cây cầu đường bộ qua sông Hương vào cuối tháng 8/2012 với tổng kinh phí hơn 730 tỉ đồng. Việc đưa cây cầu này vào sử dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa của tỉnh, nhất là phát triển hạ tầng du lịch; đồng thời sẽ giảm sức ép lưu lượng phương tiện giao thông qua cầu Phú Xuân đang ngày càng xuống cấp. Cầu đường bộ qua sông Hương là cây cầu đường bộ thứ ba bắc qua con sông này (trước kinh thành Huế) được khánh thành và đưa vào sử dụng. Cầu dài 542,5m (gồm cả đường dẫn), rộng 24,5m với 4 làn xe và hai lề đường dành cho người đi bộ. Cầu có 5 nhịp, lan can phù hợp kiến trúc, mỹ quan Cố đô Huế. Đặc biệt, dọc theo thân cầu có sáu vọng lâu để người dân và du khách có thể ngồi hóng mát, ngắm cảnh. Tại kỳ họp thứ 5, HĐND tỉnh khóa VI đã quyết định đặt tên cầu là Dã Viên.
Thừa Thiên Huế có hệ thống di tích lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tâm linh, danh lam thắng cảnh phong phú và nổi tiếng là một vùng đất có nếp nhà, nết người với nhiều giá trị văn hóa đậm đà bản sắc và liên tục được chọn, trao quyền đăng cai, tổ chức các sự kiện, lễ hội văn hóa lớn của cả nước và quốc tế. Thừa Thiên Huế tự hào hiện đang lưu giữ gần 1.000 di tích lịch sử văn hóa và hơn 500 lễ hội; trong đó, Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới; Nhã nhạc cung đình Huế - Âm nhạc cung đình Việt Nam được công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu đại diện của nhân loại; Vịnh Lăng Cô được công nhận là một trong những vịnh biển đẹp thế giới; Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai được xem là đầm phá lớn nhất Đông Nam Á... Ngoài ra, văn hóa là nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú đã và đang từng bước được khai thác có hiệu quả. Văn hóa là nội dung, là bản chất đích thực của du lịch, tạo nên tính độc đáo, đặc sắc, hấp dẫn nhất của các sản phẩm du lịch, góp phần tạo dựng hình ảnh của địa phương trong mắt bạn bè trong nước và quốc tế. Và năm 2012 là một năm đặc biệt đối với Thừa Thiên Huế, khi nơi đây vừa là chủ nhà của Festival Huế 2012 cũng là đơn vị đăng cai Năm du lịch Quốc gia. Festival Huế 2012 khai mạc vào tối 7/4 và kéo dài trong suốt 9 ngày đêm. Đây được xem là điểm nhấn mở màn của Năm Du lịch Quốc gia - Duyên hải Bắc Trung bộ do Thừa Thiên Huế đăng cai tổ chức, là hoạt động văn hóa đặc biệt được Bộ VH-TT&DL nước ta đề xướng trong khuôn khổ Diễn đàn giao lưu văn hóa Đông Á, Mỹ La tinh (FEALAC) và được đông đảo các quốc gia thành viên hoan nghênh. Festival Huế 2012 đã quy tụ hơn 65 đơn vị nghệ thuật đến từ các vùng miền Việt Nam và khắp nơi trên thế giới, thu hút hơn 18 vạn lượt khách du lịch đến Huế, trong đó có hơn 8 vạn khách quốc tế. Năm Du lịch quốc gia Duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012 với chủ đề “Du lịch di sản” là sự kiện du lịch có quy mô lớn nhất trong năm 2012, Thừa Thiên Huế đã đón và phục vụ trên 2,5 triệu lượt khách, tăng hơn 24,9%; trong đó, khách du lịch quốc tế đạt gần 803.000 lượt, tăng 24,5% so với năm 2011. Doanh thu xã hội từ du lịch đạt khoảng trên 4.470 tỷ đồng. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã tổ chức thành công nhiều hoạt động văn hóa như: Tọa đàm kỷ niệm Ngày Di sản văn hóa Việt Nam lần thứ 8 với chủ đề “Di sản văn hóa với biển đảo”, khai mạc Triển lãm “Biên giới và biển đảo Việt Nam”, công bố quyết định thành lập Bảo tàng Văn hóa Huế...
Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, năm 2013 được tiếp tục xác định là “Năm đô thị”. Tỉnh sẽ huy động tối đa các nguồn lực để đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo chuyển biến căn bản diện mạo đô thị gắn với xây dựng nếp sống văn minh đô thị; phấn đấu để tiến tới đạt cơ bản các tiêu chí đô thị loại I. Đồng thời, phát triển các lĩnh vực văn hóa, du lịch, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, làm nền tảng vững chắc để xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Thừa Thiên Huế cũng sẽ quyết tâm dành ưu tiên 5 chương trình trọng điểm: Chương trình chỉnh trang đô thị và xây dựng nếp sống văn minh đô thị; Chương trình phát triển du lịch; Chương trình giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực; Chương trình xây dựng nông thôn mới và bảo đảm an sinh xã hội; Chương trình bảo vệ môi trường, phòng, tránh, giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu. Trong đó, tập trung thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2013 chủ yếu như: Tổng sản phẩm trong tỉnh tăng trên 10%; Tổng sản phẩm trong tỉnh bình quân đầu người (GDP) đạt 1.760 USD; Tổng vốn đầu tư toàn xã hội: 14.500 tỷ đồng; Thu NSNN 5.270,8 tỷ đồng; Giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt 540 triệu USD; Doanh thu du lịch tăng 16 - 18%; Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,5%; Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề 50%; Tạo việc làm mới cho trên 16.000 người; Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,11%; Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom 90%…
Về văn hóa - du lịch, căn cứ vào giá trị lịch sử văn hóa và vị thế của vùng đất, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết 06-NQ/TU về xây dựng Thừa Thiên Huế xứng tầm là trung tâm văn hóa du lịch đặc sắc của cả nước. Và vào ngày 28/12/2012, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 114/KH-UBND về việc kế hoạch triển khai chương trình trọng điểm năm 2013 về phát triển du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế với 5 nhiệm vụ cụ thể sau: Công tác quy hoạch, kế hoạch; Xúc tiến quảng bá du lịch; Nâng cấp và phát triển sản phẩm du lịch và tăng cường chất lượng dịch vụ; Xây dựng và triển khai các đề án nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch mang tính liên vùng liên quốc gia; Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch. Đây chính là những chương trình trọng điểm lớn, thúc đẩy du lịch Thừa Thiên Huế phát triển vươn lên một tầm cao mới, góp phần cho tương lai không xa của một thành phố trực thuộc Trung ương như trong Kết luận 48-KL/TW của Bộ Chính trị.
Chỉ là một bài viết nhỏ khó có thể nói hết những gì mà Thừa Thiên Huế đã làm được trong một năm đầy sự kiện vừa qua. Thừa Thiên Huế đang nỗ lực hết sức mình để đạt được những ước muốn đã kết tinh trong nhiệt huyết của bao người. Mà bây giờ thì Huế đang chạm ngõ mùa xuân. Ngày tết cổ truyền dân tộc đang đến gần với nhiều niềm vui đang lan tỏa trong mỗi ánh mắt, mỗi nụ cười, mỗi phút giây gặp mặt bạn bè, người thân. Một năm mới đã lại về, lại là một năm tiếp tục với bao nhiêu khát vọng, bao nhiêu quyết tâm, bao nhiêu mơ ước. Đi khắp những nẻo đường của Huế, những bản nhạc xuân đã rộn ràng đánh thức những cảm giác lâng lâng khó tả. Rồi bất chợt giật mình ngẩn người với một chiều bên sông bởi một giọng ca đâu đó lan tỏa trên sóng nước: “Tiếng nguyệt cầm lên khoan nhặt, lòng thắp sao trời. Lung linh đêm dài, sáng đường vui. Xuân lai láng, Năm tháng xuân hoài. Tình say, nhạc đời say. Hiên ngoài một cánh hoa nở cho đời. Gởi bên lòng mộng lành ngày xuân, sắc trời xanh trong... Mây vờn qua núi xuân mãi xuân tình...”
A.Đ
(SH288/02-13)
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.