Thư trả lời anh Phạm Quang Trung

15:14 12/08/2008
PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

Tôi cũng như anh Phạm Quang Trung, là một người say mê sự tài hoa và thông thái của giáo sư Cao Xuân Hạo từ nhỏ, nhưng có lẽ may mắn hơn anh ở chỗ được tiếp xúc nhiều hơn với giáo sư Cao Xuân Hạo và có thể nói không sợ quá lời rằng hiểu được con người và tư tưởng của giáo sư đầy đủ hơn anh, cho nên viết những dòng này không phải để thanh minh cho giáo sư Cao Xuân Hạo, vì việc đó là hoàn toàn không cần thiết, mà là để chia sẻ cùng anh một vài suy nghĩ của mình, chung quanh vấn đề anh đã nêu ra, giống như trong một cuộc chơi, đã có người tung thì phải có kẻ hứng mới vui, nếu không thì cuộc đời buồn tẻ biết bao.
Tuy chỉ là một người học trò dốt nát của giáo sư Cao Xuân Hạo, tôi cũng nhận biết được rằng hầu hết những điều anh đã nêu ra trong bài viết đều là sự minh chứng hùng hồn cho thấy những điều giáo sư Cao Xuân Hạo đã nói là đúng. Điều lo ngại của giáo sư Cao Xuân Hạo đã có lần được bộc lộ rất thành thật: "Tôi biết những điều tôi viết trên đây không có bao nhiêu sức thuyết phục, và sẽ không thiếu gì những bạn đọc không tin tôi nói thật, hay ít nhất cũng cho rằng tôi vẽ ra một bức tranh quá ảm đạm, và những nhận định của tôi là cực đoan và thiếu căn cứ". Anh Phạm Quang Trung chính là một trong những bạn đọc mà GS Cao Xuân Hạo đã biết trước rằng "không thiếu gì" ấy. Điều đáng tiếc là anh chỉ viện dẫn một nửa ý kiến của giáo sư Cao Xuân Hạo, nửa sau quan trọng hơn nhiều thì anh lại cắt mất, hoặc cũng có thể vô tình hay cố ý lờ đi: "Tôi rất tiếc trong một bài báo không thể nêu ra những luận cứ khoa học đủ minh xác để biện hộ cho những nhận định của mình, vì thế đối với các bạn muốn có những cơ sở khoa học để có thể trao đổi ý kiến một cách nghiêm túc, tôi xin các bạn đọc cuốn "Tiếng Việt, Sơ thảo ngữ pháp chức năng" (NXB KHXH, H, 1991 và "Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa" )NXB GD,H,1998) của tôi" (Mạnh hơn bão táp, Văn Nghệ, 22/1/2000) Vì vậy, anh đã lý giải hoàn toàn sai lạc lý do của hiện tượng này. Anh cho rằng những điều GS Cao Xuân Hạo nói là thiếu sức thuyết phục bởi vì GS "cực đoan trong cách sử dụng lập luận và cách sử dụng từ ngữ", là "mạt sát người khác", là phiến diện" v.v... và kết luận đó là do cái "tâm" của người viết! Giá như anh không đặt vấn đề như vậy, mà chứng minh từng điểm một, với những lý lẽ có căn cứ và những dẫn chứng thuyết phục, rằng những nhận định của GS Cao Xuân Hạo là sai lạc hoàn toàn, thì có lẽ người đọc sẽ đánh giá cao hơn bài viết của anh, cả về phương diện khoa học lẫn về tầm vóc văn hoá của người viết. Chẳng hạn, nếu anh biết rằng số lượng các bài báo khoa học về y khoa, hoá học và sinh học của các tác giả trong nước đăng trên các tạp chí quốc tế chỉ khoảng 250 bài trong suốt 35 năm qua, so với Thái Lan 5.210 bài, Malayxia 2.088 bài, Singapo 6.932 bài, chưa nói đến các quốc gia phát triển khác, thì không rõ anh có còn giữ quan điểm cho rằng "khoảng cách giữa ta và người là có, nhưng chắc không quá lớn"? Thực ra vấn đề thua kém của trình độ khoa học trong nước là một mối lo âu chung mà rất nhiều người chia sẻ. Một nhà lãnh đạo chính trị nước ta cũng có lần phát biểu đại ý là phải biết nhục vì đói nghèo thì mới vươn lên được khỏi đói nghèo, cũng như đã là trí thức thì phải biết nhục vì trình độ thua kém, mới hòng thoát ra khỏi sự dốt nát mà tiến lên. Tự nhận thức và phê phán cái xấu, cái yếu kém của dân tộc mình hay đất nước mình là điều rất nhiều nước nghèo đã phải trải qua trên con đường vươn lên khẳng định mình. Những sự phê phán mà GS Cao Xuân Hạo đã nêu ra trong những bài báo gần đây chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh trên tinh thần ấy, chứ hoàn toàn không phải là một sự miệt thị nhắm vào một cá nhân nào hay kể cả nhắm vào số đông, như anh Phạm Quang Trung đã hiểu.
Cho nên cái lý do khiến những điều GS Cao Xuân Hạo đã trình bày trong một số bài báo gần đây "không có bao nhiêu sức thuyết phục", chính là cái sức ỳ trong tư duy của một số người đã quá gắn bó với những nhận định và quan điểm cũ đến mức từ bỏ những quan điểm ấy thì cũng đau đớn như từ bỏ chính bản thân mình. Có thể nói những người "kết tội" GS Cao Xuân Hạo là "cực đoan", "phiến diện" cũng chính là những người cực đoan và phiến diện ở phía ngược lại. Chẳng hạn anh Phạm Quang Trung cho rằng việc GS Cao Xuân Hạo đã từng được triệu tập đến nghe bốn buổi giảng về ngôn ngữ học trong đó diễn giả chưa từng đọc một trang sách báo nào về ngôn ngữ học là một "phép ngoa dụ dùng không đúng chỗ" và là một dẫn chứng về sự phiến diện. Chẳng lẽ anh không cực đoạn và phiến diện khi kết luận về một điều anh hoàn toàn không biết rõ? Nếu anh không dự bốn buổi giảng ấy và không nghe những gì mà diễn giả ấy trình bày thì làm sao anh biết GS.Cao Xuân Hạo nói quá lời?
Anh coi nhận định của GS.Cao Xuân Hạo về một cuốn sách giáo khoa nọ ("sản phẩm của một người hoàn toàn mù chữ về ngôn ngữ học và tiếng Việt viết ra") là "mạt sát người khác", mà không hề đưa một dẫn chứng nào để chứng minh cho người đọc thấy rằng quyển sách giáo khoa ấy là thể hiện một trình độ am hiểu chuyên nghiệp về ngôn ngữ học và tiếng Việt để bác lại nhận định của GS Cao Xuân Hạo. Như thế liệu có công bằng chăng? Anh nói cách đạt vấn đề của giáo sư Cao Xuân Hạo ("Tại sao không ai hé răng tranh luận với họ một lần xem sao?) là "giành giật chiến thắng bằng mọi giá", mà không chịu thấy rằng GS chỉ nói lên một sự thật, trong đó có cả trường hợp của anh: cũng như những người khác, anh "kết tội" GS Cao Xuân Hạo mà không có lập luận, không có lý lẽ.
Tôi biết GS Cao Xuân Hạo có thể có đôi lúc quá lời, nhưng đó không phải là do cái tâm không tốt đối với người bị phê phán, mà là nỗi bức xúc và thái độ không khoan nhượng đối với sự dốt nát và giả dối. Nếu không có nỗi bức xúc và thái độ không khoan nhượng đó, hẳn là người ta khó có đủ sức mạnh để tuyên chiến với sự lạc hậu, lỗi thời, để dọn đường cho cái mới tốt đẹp hơn có thể thay thế cái cũ. Nếu cái cũ không bị phủ định, thì cái mới làm sao có thể xuất hiện, và lịch sử có thể tiến lên? Tôi không coi sự sắc bén của GS Cao Xuân Hạo là cái tâm không tốt của người viết, mà coi đó là sự dũng cảm của một con người yêu sự thật và có thể hiến mình cho khoa học: ai cũng biết rằng những lời phê phán ấy sẽ biến mình thành kẻ thù của người khác, nhưng làm khoa học mà "dĩ hoà vi quý" thì khoa học chắc chắn không thể tiến được một bước nào! Chân lý cũng đòi hỏi phải trả giá, và sự hiểu lầm hoặc chê trách, thậm chí thù địch mà một số người có thể dành cho những người như GS Cao Xuân Hạo chính là cái giá phải trả để cho sự thật có thể một ngày nào đó được thừa nhận như một chân lý không thể chối cãi.
Để kết thúc bài trao đổi này, tôi muốn nhắc lại một ý thơ của Nadim Hikmet rất phổ biến ở nước ra dưới dạng như sau:
Nếu tôi không đốt lửa
Nếu anh không đốt lửa
Nếu chúng ta không đốt lửa
Thì làm sao
Bóng tối
Có thể trở thành
Ánh sáng?
Bài này đã được GS Cao Xuân Hạo sửa lại cách dịch một cách hoàn toàn xác đáng (Xem Tiếng Việt, Văn Việt, và người Việt, NXB Trẻ, 2001, tr.261):
Nếu tôi không cháy lên (hay bốc cháy)
Nếu anh không cháy lên
Nếu chúng ta không cháy lên
Thì làm sao
Bóng tối
Có thể trở thành
Ánh sáng?
Và xin trích lại câu kết luận của GS sau khi sửa bản dịch trên: "Nghĩa là mỗi người trong chúng ta phải có đủ nhiệt huyết để dám tự thiêu huỷ trong đấu tranh thì Chân mới thắng được Ngụy, Thiện mới thắng được Ac. Đây là một lời kêu gọi hy sinh, chứ không phải một lời đề nghị mọi người hãy đốt củi hay thắp đuốc lên cho sáng".
Tháng 1-2002
P.T.L

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.