Thử quan tâm thêm một khía cạnh dân tộc tính khi phân tích bài thơ "Tương tư" của Nguyễn Bính (*)

08:59 16/12/2019


VĂN TÂM

Ảnh: VnDoc.com

Tương tư

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã dành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...

Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho !
Bao giờ bến mới gặp đò ?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau ?

Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?
                              NGUYỄN BÍNH
                              (Lỡ bước sang ngang)

 

Trong khoa học văn học ngày hôm nay ở nước ta, việc chấn chỉnh quan điểm thẩm mỹ, xây dựng lại hệ thống các khái niệm văn học, đa dạng hóa công cụ tiếp cận đối tượng... theo định hướng đổi mới, là yêu cầu cấp thiết chắc ai cũng thừa nhận, trên thực tiễn công việc tìm hiểu, bình luận văn học lãng mạn sau những bước tiến đáng kể đã bị quẩn lại; quẩn lại vì người nghiên cứu vẫn loay hoay trên bình diện định lượng (dựa vào mấy bảng giá trị cũ : tính dân tộc, tính hiện thực, tính nhân bản..., mà nâng điểm cho văn học lãng mạn), chứ chưa quan tâm đúng mức đến bình diện định tính (vận dụng thêm các tiêu chí khác nữa của các bảng giá trị: tính người, tính nhân loại phổ quát...).

Đến hôm nay, tôi lại phát biểu thêm : ngay ở phạm vi định lượng thì nhiều nhà nghiên cứu cũng chưa thật bao quát trọn vẹn nội hàm các tiêu chí cũ đặng có thể nhìn nhận chân diện mục trào lưu văn học phức tạp này một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa. Ví như tán thưởng văn học lãng mạn là có tính dân tộc chẳng hạn, thì cũng chỉ chững lại ở mấy nhận xét đã đề xuất từ lâu : "thở dài chống chế độ thuộc địa" hay "ca hát non sông đất nước"...

Sau đây, khi phân tích một bài thơ quen thuộc trong văn học lãng mạn : Tương tư của Nguyễn Bính, tôi không bổ sung thước đo thuộc loại định tính, mà vận dụng một tiêu chí giá trị quen thuộc : tính dân tộc ; vấn đề ở đây là tôi thử quan tâm thêm một số tố chất, một khía cạnh dân tộc tính của tác phẩm mà có lẽ chưa nhà nghiên cứu nào đề cập, đặng từ đó góp phần phát hiện nguồn gốc ma lực thơ Nguyễn Bính - việc này nằm trong ý hướng nới giản quan niệm, bổ sung công cụ khoa học văn học nói chung.

Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ - thứ tình yêu hiện đại "trăm hình muôn trạng" của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 - 1945.

Con người lãng mạn trong bài Tương tư đã thao thức "chín nhớ mười mong” người thương ròng rã suốt "mấy đêm rồi", mong nhớ hết ngày này qua ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"... Theo đạo lý quân tử "tu, tề, trị, bình" Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá... Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính (trong có bài Tương tư) chủ yếu không phải do thái độ thành thực giải bày nỗi niềm "chín nhớ mười mong" hay do sự cãi lý cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lý nhân văn (không ít nhà thơ đương thời bộc lộ tình cảm yêu đương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước - Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi - Huy Cận) hoặc não lòng hơn : "Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ - Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ - Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá - Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ" (Trăng - Xuân Diệu)...), mà ma lực thơ tình Nguyễn Bính chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu - giọng dung hợp rất nhuần nhuyễn với một trục dọc văn hóa truyền thống : tính cách dân tộc.

Chúng ta đều rõ : Iinh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có một khu vực đặc biệt phát triển : thơ ca dân gian. Hình thái này chiếm vị trí cao trong văn hóa dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng: ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt...; và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc ca dao nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm ("Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa" - Truyện cổ tích) bất giác hoặc hữu ý đã xâm nhập rồi lượn bay nhiều vòng trên một vùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca.

Khi thâm nhập thơ ca dân gian, Nguyễn Bính đã hấp thụ được một thứ tinh nhụy độc đáo : ý thức về độ.

Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt : về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn ; về sân khấu, tuồng bi mà vẫn tráng ; chèo khi đau buồn phải có hề ra trò xua tan ngay không khí thảm sầu ; về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt ; về ứng nhân xử thế, ít muốn "cạn tàu ráo máng"... Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhân lịch sử địa lý lâu đời quyết định... Đồng hành trong hệ thống văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy khi bi lụy - cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc - đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vỉ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa :

Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa,
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.

Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng... trong ca dao dân ca xưa, chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc : "Tiếc công anh đắp đập be bờ - Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm" "Đêm qua vật đổi sao dời - Tiếc công gắn bó, tiến lời giao đoan"...; hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ : "Ngày ngày em đứng em trông - Trông non non ngất, trông sông sông dài...", quá nữa là : "Nhớ ai em những khóc thầm - Hai dòng nước mắt đầm đầm như mưa...".

Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ : "chín nhớ mười mong" dài theo ngày tháng, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục đợi chờ : "Bao giờ bến mới gặp đò", với niềm hy vọng xa vời : "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"... ; và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt : "Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo - Linh hồn anh thất thểu dõi hồn em... " như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh - ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lý một số độc giả thành thị - Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với cái mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ khác của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật việc thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có lâm trạng huống yêu đơn phương, tình tuyệt vọng... đều ứng xử có chừng mực : một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở : "Tình tôi mở giữa mùa thu / Tình em lẳng lặng kín như buồng tằm” (Đêm cuối cùng); một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại chờ : "Anh ạ ! Mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây..." (Mưa xuân); đau đớn hơn : người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo : "Đêm qua nàng đã chết rồi - Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng - Hồn trinh còn ở trần gian - Nhập vào bướm trắng mà sang bên này" (Người hàng xóm)...; và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình cũng chỉ trách móc mơ màng :

Cô hái mơ ơi, cô gái ơi
Không trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt là mơ rơi...

                        (Cô hái mơ)

Tố chất dân gian, dân tộc sâu nặng mà kín nhẹm ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn (thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn...) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.

Tất nhiên, quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng ngữ điệu (giọng) thân quen : giọng ca dao dân ca. Trong bài Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt đầy tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho)... Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính lại còn do những dòng thơ thuận tính cách người Việt đó đã đánh thức biết bao kỷ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu... Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh : thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau... ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn cải hoa vàng; vườn chanh vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay...

Nhưng thiết tưởng giọng ca dao dân ca cùng các đường nét sắc màu quê hương xứ sở thân yêu không phải không ngân nga lay động trong thơ Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, thậm chí cả Hàn Mặc Tử... tuy vậy sức cuốn hút của các thi sĩ này đối với đông đảo độc giả Việt Nam hẳn còn một khoảng cách đáng kể so với trường hợp Nguyễn-Bính.

Như vậy, bên cạnh những lực hấp dẫn thứ yếu, phải chăng cảm thức về độ trong thẳm sâu tâm linh Việt hội nhập hòa tan trong các vần thơ "chân quê" Nguyễn Bính chính là thứ tín hiệu kiểu siêu âm, hồng ngoại rất lợi hại đã tạo ra công năng chủ yếu đặng quy tụ biết bao các chàngnàng lái đò chẳng hạn - những người không ham vượt ngưỡng, vốn hàng ngày vẫn âm thầm ngang dọc trôi nổi nơi sông nước con tim người Việt:

Lang thang anh dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền lại thôi...

                              (Giấc mơ anh lái đò)

Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi
Cô đành lỗi hẹn với tình quân...

                              (Cô lái đò)

V.T.
(TCSH47/05-1991)

------------------
(*) Trích tham luận tại Hội thảo Đổi mới nội dung nghiên cứu giảng dạy văn học do Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội tổ chức (tháng 4-1991).

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.