VĂN TÂM
Ảnh: VnDoc.com
Tương tư
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã dành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho !
Bao giờ bến mới gặp đò ?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau ?
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?
NGUYỄN BÍNH
(Lỡ bước sang ngang)
Trong khoa học văn học ngày hôm nay ở nước ta, việc chấn chỉnh quan điểm thẩm mỹ, xây dựng lại hệ thống các khái niệm văn học, đa dạng hóa công cụ tiếp cận đối tượng... theo định hướng đổi mới, là yêu cầu cấp thiết chắc ai cũng thừa nhận, trên thực tiễn công việc tìm hiểu, bình luận văn học lãng mạn sau những bước tiến đáng kể đã bị quẩn lại; quẩn lại vì người nghiên cứu vẫn loay hoay trên bình diện định lượng (dựa vào mấy bảng giá trị cũ : tính dân tộc, tính hiện thực, tính nhân bản..., mà nâng điểm cho văn học lãng mạn), chứ chưa quan tâm đúng mức đến bình diện định tính (vận dụng thêm các tiêu chí khác nữa của các bảng giá trị: tính người, tính nhân loại phổ quát...).
Đến hôm nay, tôi lại phát biểu thêm : ngay ở phạm vi định lượng thì nhiều nhà nghiên cứu cũng chưa thật bao quát trọn vẹn nội hàm các tiêu chí cũ đặng có thể nhìn nhận chân diện mục trào lưu văn học phức tạp này một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa. Ví như tán thưởng văn học lãng mạn là có tính dân tộc chẳng hạn, thì cũng chỉ chững lại ở mấy nhận xét đã đề xuất từ lâu : "thở dài chống chế độ thuộc địa" hay "ca hát non sông đất nước"...
Sau đây, khi phân tích một bài thơ quen thuộc trong văn học lãng mạn : Tương tư của Nguyễn Bính, tôi không bổ sung thước đo thuộc loại định tính, mà vận dụng một tiêu chí giá trị quen thuộc : tính dân tộc ; vấn đề ở đây là tôi thử quan tâm thêm một số tố chất, một khía cạnh dân tộc tính của tác phẩm mà có lẽ chưa nhà nghiên cứu nào đề cập, đặng từ đó góp phần phát hiện nguồn gốc ma lực thơ Nguyễn Bính - việc này nằm trong ý hướng nới giản quan niệm, bổ sung công cụ khoa học văn học nói chung.
Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ - thứ tình yêu hiện đại "trăm hình muôn trạng" của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 - 1945.
Con người lãng mạn trong bài Tương tư đã thao thức "chín nhớ mười mong” người thương ròng rã suốt "mấy đêm rồi", mong nhớ hết ngày này qua ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"... Theo đạo lý quân tử "tu, tề, trị, bình" Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá... Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính (trong có bài Tương tư) chủ yếu không phải do thái độ thành thực giải bày nỗi niềm "chín nhớ mười mong" hay do sự cãi lý cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lý nhân văn (không ít nhà thơ đương thời bộc lộ tình cảm yêu đương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước - Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi - Huy Cận) hoặc não lòng hơn : "Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ - Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ - Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá - Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ" (Trăng - Xuân Diệu)...), mà ma lực thơ tình Nguyễn Bính chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu - giọng dung hợp rất nhuần nhuyễn với một trục dọc văn hóa truyền thống : tính cách dân tộc.
Chúng ta đều rõ : Iinh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có một khu vực đặc biệt phát triển : thơ ca dân gian. Hình thái này chiếm vị trí cao trong văn hóa dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng: ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt...; và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc ca dao nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm ("Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa" - Truyện cổ tích) bất giác hoặc hữu ý đã xâm nhập rồi lượn bay nhiều vòng trên một vùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca.
Khi thâm nhập thơ ca dân gian, Nguyễn Bính đã hấp thụ được một thứ tinh nhụy độc đáo : ý thức về độ.
Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt : về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn ; về sân khấu, tuồng bi mà vẫn tráng ; chèo khi đau buồn phải có hề ra trò xua tan ngay không khí thảm sầu ; về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt ; về ứng nhân xử thế, ít muốn "cạn tàu ráo máng"... Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhân lịch sử địa lý lâu đời quyết định... Đồng hành trong hệ thống văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy khi bi lụy - cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc - đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vỉ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa :
Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa,
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.
Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng... trong ca dao dân ca xưa, chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc : "Tiếc công anh đắp đập be bờ - Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm" "Đêm qua vật đổi sao dời - Tiếc công gắn bó, tiến lời giao đoan"...; hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ : "Ngày ngày em đứng em trông - Trông non non ngất, trông sông sông dài...", quá nữa là : "Nhớ ai em những khóc thầm - Hai dòng nước mắt đầm đầm như mưa...".
Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ : "chín nhớ mười mong" dài theo ngày tháng, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục đợi chờ : "Bao giờ bến mới gặp đò", với niềm hy vọng xa vời : "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"... ; và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt : "Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo - Linh hồn anh thất thểu dõi hồn em... " như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh - ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lý một số độc giả thành thị - Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với cái mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ khác của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật việc thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có lâm trạng huống yêu đơn phương, tình tuyệt vọng... đều ứng xử có chừng mực : một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở : "Tình tôi mở giữa mùa thu / Tình em lẳng lặng kín như buồng tằm” (Đêm cuối cùng); một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại chờ : "Anh ạ ! Mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây..." (Mưa xuân); đau đớn hơn : người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo : "Đêm qua nàng đã chết rồi - Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng - Hồn trinh còn ở trần gian - Nhập vào bướm trắng mà sang bên này" (Người hàng xóm)...; và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình cũng chỉ trách móc mơ màng :
Cô hái mơ ơi, cô gái ơi
Không trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt là mơ rơi...
(Cô hái mơ)
Tố chất dân gian, dân tộc sâu nặng mà kín nhẹm ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn (thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn...) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.
Tất nhiên, quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng ngữ điệu (giọng) thân quen : giọng ca dao dân ca. Trong bài Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt đầy tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho)... Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính lại còn do những dòng thơ thuận tính cách người Việt đó đã đánh thức biết bao kỷ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu... Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh : thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau... ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn cải hoa vàng; vườn chanh vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay...
Nhưng thiết tưởng giọng ca dao dân ca cùng các đường nét sắc màu quê hương xứ sở thân yêu không phải không ngân nga lay động trong thơ Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, thậm chí cả Hàn Mặc Tử... tuy vậy sức cuốn hút của các thi sĩ này đối với đông đảo độc giả Việt Nam hẳn còn một khoảng cách đáng kể so với trường hợp Nguyễn-Bính.
Như vậy, bên cạnh những lực hấp dẫn thứ yếu, phải chăng cảm thức về độ trong thẳm sâu tâm linh Việt hội nhập hòa tan trong các vần thơ "chân quê" Nguyễn Bính chính là thứ tín hiệu kiểu siêu âm, hồng ngoại rất lợi hại đã tạo ra công năng chủ yếu đặng quy tụ biết bao các chàng và nàng lái đò chẳng hạn - những người không ham vượt ngưỡng, vốn hàng ngày vẫn âm thầm ngang dọc trôi nổi nơi sông nước con tim người Việt:
Lang thang anh dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền lại thôi...
(Giấc mơ anh lái đò)
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi
Cô đành lỗi hẹn với tình quân...
(Cô lái đò)
V.T.
(TCSH47/05-1991)
------------------
(*) Trích tham luận tại Hội thảo Đổi mới nội dung nghiên cứu giảng dạy văn học do Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội tổ chức (tháng 4-1991).
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.