Thư ngỏ gửi tác giả "Văn chương cảm và luận"

09:55 07/12/2009
NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo - Ảnh: vietnamnet.vn

Có lẽ Nguyễn Trọng Tạo nổi danh ở Kinh Bắc trước hết phải cảm ơn Nguyễn Phan Hách - nói vui là anh đã được "ăn theo" bài thơ của một người Kinh Bắc. Đồng thời Nguyễn Phan Hách cũng được "nổi tiếng theo" Nguyễn Trọng Tạo, một người trai xứ Nghệ. Nhưng hơi tiếc tại trang 332 của cuốn sách này trong bài viết "Về tôi", Nguyễn Trọng Tạo đã không nhắc đến Nguyễn Phan Hách khi anh kể rằng "Bài hát Làng quan họ quê tôi được chọn vào băng hình của Nhật Bản, được dàn nhạc Lepxích trình diễn". Có thể do tác giả vô tình, hoặc do lỗi của nhà in, và cho dù người ta đã biết rõ qua những bài viết khác, tôi vẫn muốn đính chính giùm tác giả ở cuốn sách này.

2. Văn chương cảm và luận trước hết là một cuốn sách đẹp, bìa do họa sĩ Văn Sáng trình bày thật độc đáo. Nổi bật lên chữ V mềm mại in nhũ vàng với 7 dòng chữ "Văn chương cảm & luận" từ to đến nhỏ dần, nhỏ đến mức mắt kém không đọc được. Nếu tính cả lời bạt của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến và mục lục thì cuốn sách dày 340 trang, nhưng có thể đọc một mạch mà không thấy mệt. Số lượng thấy đề in 2000 cuốn, quả là không ít so với loại sách văn học, đặc biệt là sách phê bình - tiểu luận hiện nay. Nhưng tôi nghĩ có thể in với số lượng lớn hơn, từ 5 đến 7 nghìn bản mới đáp ứng được nhu cầu bạn đọc vốn rất yêu mến Nguyễn Trọng Tạo không chỉ với tư cách nhà thơ mà còn là nhạc sĩ, họa sĩ, nhà báo. Không biết tác giả có nghĩ tới điều này không?

3. Xuyên suốt cuốn sách, "cái tôi" của tác giả được nhắc đi nhắc lại nhiều lần dù Nguyễn Trọng tạo nói về bạn thơ khác, từ một em bé nói thơ có mẹ làm "thư ký" đến các nhà thơ cao tuổi nổi tiếng như Hoàng Cầm, Trần Dần hay Văn Cao. Nhưng chiếm tỷ lệ lớn hơn cả là Nguyễn Trọng Tạo viết về những bạn thơ cùng lứa bộ đội chống Mỹ và những nhà thơ trẻ. Đó cũng là lẽ thường tình, vì thơ cần tri âm tri kỷ chia sẻ với nhau.

4. Nguyễn Trọng tạo là nhân chứng lịch sử của cả giai đoạn thơ có nhiều biến động, vì anh có may nắm được gặp gỡ và chơi với rất nhiều nhà thơ Bắc - Trung - Nam, có người ít được biết đến, có người nay đã khuất. Qua cuốn sách này, anh đã giúp độc giả có góc nhìn mới về các nhà thơ mà anh đã gặp. Càng gặp gỡ nhiều thì "cảm và luận" của Nguyễn Trọng Tạo càng nhiều. Dạng những bài này có giá trị "sử ký Tư Mã Thiên".

5. Nguyễn Trọng Tạo không e ngại khi gặp những nhà thơ "có vấn đề", và viết về họ với thái độ chân thành, can đảm tiếp cận sự thật nên cuốn sách có nhiều thông tin mới "độc nhất vô nhị".

6. Ngoài các thông tin trực tiếp giữ được của nhiều nhà thơ mà Nguyễn Trọng Tạo lần đầu tiên công bố, thì qua Văn chương cảm và luận tác giả đã đưa ra nhiều nhận định đáng lưu ý về thơ Việt Nam như thơ trẻ chống Mỹ, thơ trẻ sau 1975, về thơ lục bát, thơ tứ tuyệt, trường ca, thơ văn xuôi và thơ không vần, về giải thưởng thơ, về thơ hậu chiến, hay về một số nhà thơ trong nhóm "Nhân văn - Giai phẩm". Tài văn bút của Nguyễn Trọng Tạo qua "cảm và luận" biểu hiện ở giọng văn có cá tính và cách viết đầy khêu gợi người đọc cùng "cảm và luận" với anh.

7. Nguyễn Trọng Tạo bộc bạch ý kiến để nhiều người cùng suy ngẫm về những vấn đề còn khúc mắc trong tranh luận: "Thơ của những người cùng tham chiến, dù là Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy hay Nguyễn Bắc Sơn, Dzu Tử Lê, Nguyên Sa... nếu còn lại thì cũng chỉ còn lại những giọt máu thơ nhân bản mà thôi". Bởi theo anh: "Đã là những giá trị thì đều là tài sản chung, cả dân tộc cùng nâng niu gìn giữ, không nên phân biệt con đẻ, con nuôi, bên này, bên khác. Tất cả đều là con của bà mẹ Việt đau thương và độ lượng... Những giá trị thơ ca đích thực do thế hệ này mang lại, dù là ở phía nào, đều góp phần xóa đi những mặc cảm lịch sử một thời". Ý kiến của Nguyễn Trọng Tạo ở tuổi "tri thiên mệnh", một Nguyễn Trọng Tạo đã thành danh với nhiều danh hiệu thơ - văn - nhạc - họa - báo... đã góp tiếng nói vào vấn đề đang tranh cãi quyết liệt trên nhiều báo chí trong và ngoài nước, rất đáng được ghi nhận.

8. Ngoài "cái tôi" đầy trách nhiệm trong các bài viết về thơ của đồng nghiệp và thực trạng thơ những năm qua, Nguyễn Trọng Tạo đã rất thành thực qua những bài tự bạch về bản thân. Anh thú nhận về "người thầy đầu tiên" đã đưa anh vào con đường sáng tác thơ chính là một thi sĩ đã quá cố: "Tôi cũng đọc ở đó (tủ sách của người cha mà anh gọi là cậu) nhiều cuốn sách, nhưng phải đọc Hàn Mặc Tử, những sợi - dây - thơ trong hồn tôi mới thực sự chấn động bởi ma lực kỳ lạ của thơ". Lận đận trong học hành thi cử, vấp váp trong "tai nạn nghề nghiệp", nhưng với tài năng bẩm sinh và lao động nghệ thuật miệt mài, qua cuốn Văn chương cảm và luận, Nguyễn Trọng Tạo đã moi hết tim gan của mình ra trước mọi người mà không hề sợ bị hố.

9. Theo cá nhân tôi thì đây là một cuốn sách lý thu. Nó giúp cho người đọc có một cái nhìn bao quát về cả một giai đoạn thơ Việt mấy chục năm qua với một lối tiếp cận bản chất sự thật của thơ và sự thật của đời sống thơ ca dưới ngòi bút của một chủ thể sáng tạo rất đáng tin cậy. Cho dù có những bài viết theo lối nhật ký, ghi chép, đối thoại không theo lối viết căn cứ vào "văn bản học", thì nó vẫn có sức gợi mở cho người đọc tiếp tục những suy ngẫm thú vị.

Trên đây chỉ là những ý kiến tức thì của tôi sau khi gấp lại trang cuối Văn chương cảm và luận, muốn được chia sẻ cùng tác giả và bạn đọc gần xa. Tôi tin có thể sẽ có nhiều cách "cảm và luận" khác nhau về cuốn sách này của Nguyễn Trọng Tạo. Nếu có gì không phải, mong tác giả và bạn đọc chỉ giáo cho.

Hà Nội, cuối năm 1998
N.V.H
(124/06-99)


------------------------------
(*) Văn chương cảm và luận - Nxb Văn hóa Thông tin, 1998




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.