Thư gửi một độc giả thơ trẻ (2003)

14:49 17/10/2008
NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

Bức thư này được ông viết trong khuôn khổ “Mùa xuân của các nhà thơ” (le Printemps des Poètes), một hoạt động văn hóa do Pháp đề xướng, được tổ chức hàng năm với sự tham gia của rất nhiều người thuộc nhiều quốc gia trên thế giới.

T
rong một bài thơ đã cũ, tôi có viết rằng “thi ca, theo như cách tôi hiểu, là vô dụng”. Câu này có thể trở thành một giới hạn mà vượt qua nó, kẻ nào không quan tâm đến vấn đề thi ca có thể dừng lại. Chính là vì thi ca vừa có tính vô dụng nhưng lại vừa đồng hành với con người từ ngọn nguồn của anh ta và nó tiếp tục đồng hành với anh ta trong những thời điểm khó khăn nhất. Lý do là: bài thơ không đòi hỏi gì ở chúng ta cả, trái lại, nó cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần, với sự đơn giản tuyệt đối của nó. Chúng ta làm thơ chỉ với những ngôn từ và những ngôn từ này chúng ta đi tìm ở cuốn từ điển đơn giản nhất, đó là cuộc sống của bản thân chúng ta. Sỏi đá, xà phòng, xốp bọt biển, anh bạn, tình yêu, cái chết - đó có thể là những cây cột chống đỡ tòa nhà được xây dựng không dựa trên cái gì cả và cao đến tận trời, khi sự tập hợp những âm thanh đó mang hình dạng của câu thơ.

Lý do giải thích điều đó là, nói cho cùng, độc giả đầu tiên của bài thơ chính là anh bạn trẻ, vì anh bạn mà tôi viết bài thơ. Tôi không quen biết anh bạn, có thể chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau; nhưng luồng điện đã được thiết lập vào thời khắc mà những ngôn từ lóe lên sẽ không bao giờ có thể nhập vào bài thơ, nếu nó không được gửi gắm cho một người nào đó, người mà chỉ sự hiện hữu của bản thân bài thơ m
ới có thể khiến cho anh ta trở thành hiện thực. Thế là anh bạn hiện hữu, vượt qua những thời đại và những ngôn ngữ, tôi biết rằng bằng những lối đi mà cũng chẳng một ai trong chúng ta có thể ngay cả mơ ước, bài thơ sẽ đến được cửa của những dòng sông phận người, những dòng sông kéo dài cuộc sống của các cộng đồng, theo hành trình trong lòng đất của dòng nước chảy sâu giữa những gốc rễ của ký ức, cho đến khi nó tìm thấy được lòng sông tự nhiên của mình.

Đây chính là nơi anh bạn có thể tìm ra điều gì tạo nên sự khác biệt của bài thơ và ngăn không cho nó chết. Bài thơ có thể được nói to lên, thì thầm vào tai anh bạn, hay có thể chỉ được thì thào, tránh xa những đôi tai khó ưa, nhất là nó còn có thể được thốt ra trong câm lặng, bên trong chúng ta, được học thuộc lòng, và đó chính là lúc ca khúc của nó đạt được sức mạnh to lớn nhất, đến mức khôi phục cho chúng ta sức mạnh mà chúng ta tưởng đã mất đi, bởi vì điều cho phép phân định được tiếng nói của nhà thơ, chính là ở chỗ mỗi một chúng ta đều có thể đảm nhận nó như với tiếng nói của chính mình.

Có một kiểu luyện tập lạ lùng thường được thực hiện giữa trẻ con với nhau; đó là lặp lại một từ một cách trọn vẹn. Đến một lúc nào đó, kẻ lặp lại nó nhận ra rằng âm thanh đã chiếm lĩnh từ, làm cho nó rỗng hết mọi ý nghĩa; cái mà chúng ta nghe thấy trở thành vỏn vẹn một đoạn âm, và chúng ta có thể gán cho nó bất kỳ một ý nghĩa nào khác. Như thế, từ đã được lặp lại một nghìn lần rốt cuộc có thể có nghĩa là hoa hồng, hay giọt lệ cuối cùng được chuyển hóa thành đại dương. Điều đó nói cho cùng cũng chính là đặc trưng của bài thơ. Dù cho chúng ta đọc thơ hay nói thơ, trong bao nhiêu lần đi nữa, thì ý nghĩa của bài thơ vẫn không bao giờ cạn kiệt và mỗi một lần như thế chúng ta lại thấy nẩy sinh từ bài thơ những điều mà trước đó chúng ta chưa hề mường tượng ra là có thể có.

Khi bắt đầu lá thư này, tôi quên không nói một điều: trong câu thơ thứ hai của bài thơ mà ở đó tôi đã đề cập đến tính vô dụng của thi ca, tôi đã hỏi: “Thế thì tại sao tôi lại đến tận nơi này?” Và câu trả lời có lẽ là như sau: để biết được mỗi lần tôi viết một bài thơ điều gì sẽ lại lóe lên từ bài thơ đó. Vào những dịp chợ phiên trong thời thơ ấu của tôi, có những nghệ sĩ vụng về cố sức kéo ra những vật mới lạ từ những chiếc mũ rỗng, hay cũng có khi cố rút ra giữa một bộ bài cũ kỹ những lá bài vô hình. Bài thơ cho phép chúng ta làm điều đó mà không cần cầu viện đến những mánh khóe và càng không cần đánh lừa người xem. Sự biến thân nẩy sinh từ bên trong bản thân các ngôn từ nhờ vào ma lực đến từ âm nhạc có ở trong chúng, và mỗi một người trong chúng ta đều học cái ma lực ấy khi bắt đầu nói.
Và cuối cùng anh bạn sẽ thấy, dù cho thi ca tiếp tục là vô dụng, rằng mình sẽ không thể nào sống thiếu nó.
(Nguyên bản tiếng Bồ Đào Nha dịch
từ bản tiếng Pháp của Isabel Meyrelles
PHẠM THỊ ANH NGA dịch

(nguồn: TCSH số 220 - 06 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.