Thông điệp thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường

15:27 28/08/2008
HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

Nhưng khi nói đến sự nghiệp văn chương, mọi người lại nghĩ ngay đến anh như một trong những nhà viết ký tài năng của thế kỷ XX. Với 7 tập bút ký trải dài theo hành trình cuộc sống và hành trình sáng tạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tự chọn cho mình thể loại sinh tử để lập thân và lập ngôn. Các nhà nghiên cứu đã phân tích nhiều về bản sắc và phong cách ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là hệ quả từ sự lựa chọn đó của anh. Trong bài viết ngắn này, tôi muốn nói đến một thế giới khác trong con người tâm linh Hoàng Phủ Ngọc Tường – thế giới nghệ thuật thơ. Nếu không quá máy móc căn cứ ở những ngày tháng ghi dưới mỗi bài thơ thì có thể thấy cảm hứng sáng tạo chính trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự hòa quyện những cảm hứng lớn về nhân dân, đất nước và cảm hứng thẳm sâu về thiên nhiên, về tình yêu được thể hiện tiếp biến từ những năm tháng kháng chiến đến những năm tháng hòa bình. Con người nghệ sĩ và conngười công dân cùng với những trải nghiệm và kiếm tìm từ cuộc sống thật của mình đã làm nên hồn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa hiện thực vừa lãng mạn; vừa trang nhã quý phái vừa triết lý, ảo diệu cả trong 2 tập thơ Những dấu chân qua thành phố (1976) và Người hái phù dung (1995), (tái bản lần thứ nhất 1998).
Có thể nhận xét một cách khái quát về động thái thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là cách kiến trúc trục không gian – thời gian nghệ thuật một cách ảo diệu gắn liền với ký ức tâm hồn giàu biến thái của anh khi nghĩ về tình yêu, thiên nhiên và đất nước.
Thơ anh không mới về thể thơ và hình thức biểu đạt, nhưng thơ anh có sức ám ảnh lớn về sự sống thật của cõi người qua cách tổ chức ý thơ và tứ thơ cùng việc vận dụng vốn ngôn ngữ giàu tính văn hóa hán học, triết học, sử học; kể cả dân tộc học, sinh vật học cũng như cách huy động hình ảnh thơ, liên tưởng thơ ảo diệu, làm cho hiện thực cuộc sống và tâm trạng luôn xao động giữa các phạm trù sống – chết, giới hạn – vĩnh hằng, cái thoáng chốc phù du và cái thiên thu bất tuyệt. Và sau tất cả những xao động đó là khát vọng hiện sinh đầy trách nhiệm của những con người biết sống qua sự đối chiếu với thiên nhiên và thời gian khách quan thường nghiệm.
Anh hái cành phù dung trắng
Cho em niềm vui cầm tay
Màu hoa như màu ánh nắng
Buổi chiều chợt tím không hay
Nhìn hoa bâng khuâng anh nói
Mới thôi mà đã một ngày.
Một ngày trôi qua, một thoáng trôi qua, một năm trôi qua và một đời người trôi qua, kết thúc một còng luân hồi là qui luật sinh vật học; còn qui luật của trái tim và khối óc mang đầy khát vọng thì sao? Tác giả tự trả lời một cách dứt khoát – cách để chiến thắng cái "xuẩn ngốc" của thời gian vật chất kia như sau:
Dù năm dù tháng em ơi
Tim anh chỉ đập một đời
Nhưng trái tim mang vĩnh cửu
Trong từng giọt máu đỏ tươi
Vậy là chìa khóa để đi vào thế giới thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được ký mã, thám mã và giải mã. Toàn bộ những ám ảnh phù du, ám ảnh nỗi buồn, ám ảnh cỏ hoa mang manh dễ vỡ trong thơ anh là thi pháp đối cực, đối trọng để anh nói về cái trường cửu, niềm vui và khát vọng sống thật của cõi người.
Hoài niệm về những con đường rừng cũ vì vậy lại hồi sinh nguyên vẹn:
Ôi những con đường chỉ một lần qua
... Nhưng từ đó cây hoang rừng già
Thương mãi đàn con gian khổ
... Tôi đi trên những con đường ấy
Mang Việt Nam trong linh hồn
Trên hệ qui chiếu ấy, những dấu chân một thời đi qua thành phố trở thành đường chân trời mơ mộng "Đến bây giờ trên mặt thành cỏ biếc – Đá trăm năm còn tạc dấu chân trần".
Ôi những dấu chân in thành vết son
Dù tháng năm mưa gió không mòn
Khi ta đặt bàn chân lên đó
Sức nghìn năm khôi phục giữa tâm hồn.
Những bàn chân – dấu chân in hình trên đất đai của quê hương, xứ sở là chứng tích không phai của những con người yêu nước mình, đêm hành quân ngủ dưới trời sao sáng "Thấy đất nước cười lấp lánh chiêm bao", và khi đi qua một trời giông bão để "đến tận nguồn sông ta lại gặp – Bạn bè đông thành phố rộng không ngờ".
Vẫn với cách ký mã và giải mã ấy, ta thấy được vẻ đẹp lung linh tình sử trong thơ tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ta gặp trong thơ anh những tình xa, tình tan, tình mây khói với bao là tạ từ, chiêm bao, cảm tạ chờ mong, phù du mộng ảo... nhưng bên sau là một trời thương nhớ, gấm hương hoa mộng, cả ở thế giới ngày sau:
Cảm ơn người trái đào tiên
Tôi về lãng đãng nơi mình cỏ gai
Cỏ gai hoa thẳm mặt người
Trinh nữ ơi, trinh nữ ơi tôi buồn
Thôi người ở lại soi gương
Tôi đi về phía con đường cỏ lau
Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi.
Dù trong hiện tại, có lúc người thơ không khỏi mang tư tưởng cô đơn, bi đát và hốt hoảng khi thấy: "Trên tài hoa nhàu nát – Trên trần gian khói sương – Trên mặt người biến sắc – Mưa in dấu vô thường" và chính người thơ đăm chiêu ngồi dáng người thượng cổ đối ẩm và tự thoại với bóng mình theo dáng một loài cây. "Cây xấu hổ đau gì mà rũ lá – Tôi gập người trên bóng tôi" và lan ra thành điệp khúc cô đơn:
- Chỉ mình tôi với bóng cây
- Chỉ một mình tôi với bóng mây
- Chỉ một mình tôi với bóng chim
Và cuối cùng là tư thế thiền định:
- Chỉ có tôi ngồi với tôi
- Không ai cười nói, không ai khóc
- Tôi ngồi im vắng như lau sậy
Mờ mịt như màu sương khói thôi.
Vậy mà đối cực của sự cô đơn kia là ước vọng lại hiện lên ngọt ngào, xoa dịu ám ảnh ly tan đơn độc.
Thôi em cảm tạ chờ mong
Ngày anh đi hái phù dung chưa về
Đêm qua hương đã tàn mê
Mây đi còn dấu trăng thề như in.
Và niềm hạnh phúc giận hờn trở thành kinh nghiệm buồn để nuôi dưỡng ước mơ lại trở về trinh nguyên, hoang dã: Trên kỷ niệm giận hờn – Có ngôi sao chiều tím – Là môi em cúi xuống – Trên mình anh vết thương".
Đến "Dạ khúc", bài thơ diễn ra một tình sử đoạn trường "ngọt ngào như trái nho tươi".
Có buổi chiều nào mộng mị vây quanh
Nửa vành mi cong hờn dỗi
Em xõa muộn sầu trên gối
Rối bời như mớ áo xanh
Và người thơ van xin niềm ân huệ ở người tình, ở thiên nhiên – niềm trinh nguyên xanh thẳm.
Tôi còn ngọn nến hao gầy
Chảy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa
hoặc:
Ta tìm lại trong hình hài hóa bướm
Chút tự do quả thực trên đời
Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng
Núi thông nhiều, ta hãy rong chơi.
Rong chơi để hóa giải nỗi buồn, rong chơi để xoa tan nỗi đam mê hoang tưởng chính là sự rong chơi có ích và chứa đầy khát vọng tình yêu. Những hình ảnh giai nhân lại hiện ra trong ký ức và tiềm thức của tác giả thật đẹp, đặc biệt là hình ảnh một tiên nữ buồn rầu, xõa tóc như mưa, như mây khói ám ảnh tác giả đến cả trong giấc mơ.
- Em xõa muộn sầu trên gối
Rối bời như mớ tơ xanh
- Có nàng xõa tóc tiên nga
Quỳ hôn cát bụi khóc òa như mưa
- Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chốn vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa xa mãi trong đời
Tóc tiên trinh nữ rối bời trên vai.
Đến đây, ta có thể thấy nỗi buồn và ám ảnh phù du trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi trọn hành trình đau khổ của nó để thấu triệt sự âu lo hiện sinh của chính mình thông qua các phạm trù thời gian – không gian, thông qua thiên nhiên, hoa cỏ – nơi thanh lọc và làm cao sang, hóa giải nổi buồn, để nhà thơ tiếp tục mơ mộng vào khát vọng thiên thu bằng biện pháp đồng nhất hoá thần thoại từ những tình sử Hy lạp lunh linh.
Cánh phù du bay hoài không nghỉ.
Chút thời gian lay động ở trên cao
Bụi phù du kết thành tinh thể
Người trần gian mê mãi nhìn sao
Từ đó những vì sao Hy Lạp
Trong thiên thu mang khát vọng con người
Từ đó trên trời đêm Hy Lạp
Niềm say mê cháy mãi không nguôi.
Đấy là toàn bộ những ẩn số của thế giới thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường dù anh muốn thông điệp đến chúng ta. Và đó cũng là ẩn số của chính cuộc đời anh để chiến thắng nỗi buồn và thần chết để tiếp tục sáng tạo.
Huế, 5.5.2002
H.T.H

(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LƯU KHÁNH THƠ1. Nam Trân trong dòng thơ tả chân của phong trào thơ mớiHoài Thanh đã dùng khái niệm tả chân để định danh một nhóm các tác giả Thơ mới tương đối gần nhau về bút pháp.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)

  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.

  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.