Thời thơ mới bàn về thơ mới

15:09 03/06/2008
Trong lời Nhỏ to... cuối sách Thi nhân Việt   (1942), Hoài Thanh - Hoài Chân viết:  “Tôi đã đọc một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở. Nếu làm xong quyển sách này, mà không chê chán vì thơ, ấy là điều tôi rất mong mỏi”.

Đây mới chỉ nói về việc bao quát tư liệu, thẩm định và chọn lựa tác phẩm thơ ca. Còn một nội dung quan trọng khác nữa là hai ông đã theo dõi sát sao quá trình phát triển của phong trào Thơ mới trên cơ sở cứ liệu phê bình và tranh luận văn học - những cuộc đăng đàn diễn thuyết; những bài điểm sách, đọc sách, bình luận; những bài tựa, bạt; những cuộc luận chiến giữa nhiều người và nhiều phái; những bước tổng kết qua từng năm, từng chặng đường và cả chuyên khảo về từng tác giả hay khảo sát một số đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật Thơ mới đương thời. Nói khác đi, cùng với tiếng đàn đồng điệu trác tuyệt qua lời bình về từng thi nhân thì lời dẫn Một thời đại trong thi ca của Thi nhân Việt Nam chính là đã được chưng cất trên nền tảng những kiến giải sâu sắc về Thơ mới, thực hiện cuộc tổng duyệt thành công mỹ mãn và tương xứng với một mùa bội thu thơ ca.
Một thời đại vừa chẵn mười năm”! Chính Hoài Thanh - Hoài Chân đã tổng kết một cách xuất sắc lịch sử cả một thời đại thơ ca, kể từ cội nguồn mầm triệu trước đó cho đến khi Thơ mới đi vào giai đoạn thoái trào, chung cuộc, vào đúng khoảng thời gian cuối năm 1941, khi tác giả đặt dấu chấm hết cho công trình của mình. Tuy nhiên, từ điểm nhìn văn học sử có thể nói hào quang Thơ mới còn le lói suốt từ 1942 (thời điểm in Thi nhân Việt Nam) đến gần Cách mạng Mùa Thu 1945, với bước đi cuối mùa của nhóm Xuân Thu nhã tập, Thơ Hàn Mặc Tử (1942), Nguyễn Bính in Mười hai bến nước, Mây Tần, Người con gái ở lầu Hoa (1942), Vũ Hoàng Chương in Mây (1943), Tế Hanh in Hoa niên (1944), Xuân Diệu in Gửi hương cho gió (1945); nhiều bài luận bình, trao đổi về Thơ mới tiếp tục được in trên các báo, tạp chí như Thanh nghị, Tri tân (1941 - 1945), Nam Kỳ tuần báo (1942 - 1945) và các chuyên luận như Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại (1942), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam của Kiều Thanh Quế (1942), Tú Mỡ của Lê Thanh (1942), Việt Nam thi ca luận của Lương Đức Thiệp (1942)... Cũng từ điểm nhìn văn học sử sẽ thấy rõ những luận bình về Thơ mới được trích dẫn trong Thi nhân Việt Nam là tiếng nói của người trong cuộc, người đương thời - thì đến lượt mình, chính công trình tổng thành Thi nhân Việt Nam cũng là tiếng nói “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”! Điều này cũng có nghĩa là cần chú ý hơn nữa việc đặt Thi nhân Việt trong bối cảnh phong trào Thơ mới, trong tiến trình nghiên cứu Thơ mới ngay buổi đương thời.
Phải ghi nhận một thực tế khách quan là thành công của Thi nhân Việt Nam chính là đã tựa trên nền tảng một đời sống học thuật thực sự cởi mở, dân chủ - tất nhiên trên lĩnh vực thơ ca. Ở đây thực sự đã diễn ra không khí “trăm nhà đua tiếng” với sự nhập cuộc bình đẳng của tất cả các phái mới - cũ, trong Nam - ngoài Bắc, giới sáng tác - phê bình... mà trọng tài ghi nhận cuối cùng chính là sự thắng thế tuyệt đối của trào lưu Thơ mới. Tất nhiên công việc đánh giá toàn cảnh bức tranh lịch sử phong trào Thơ mới đòi hỏi phải tìm trở lại những tài liệu nguyên gốc, những tiếng nói ban sơ thực sự là của “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”; bao gồm tất cả những ý kiến đề xuất, tựa, bạt; những cuộc luận chiến, đấu tranh nảy lửa về quan niệm Thơ Mới - Cũ; những bài đọc, điểm, luận bình các tập thơ; và thêm nữa là các tiểu luận, khảo cứu chuyên sâu về đội ngũ tác giả, các trào lưu, các vùng văn học, các sắc thái nội dung và hình thức thể loại (với những đóng góp nổi bật của Thiếu Sơn, Lam Giang, Hoài Thanh - Hoài Chân, Lê Thanh, Lương Đức Thiệp, Trần Thanh Mại, Kiều Thanh Quế...).
Để nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của tiếng nói lịch sử “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”, chúng tôi điểm lại một vài khía cạnh nội dung và sự kiện liên quan:
1. Có thể nói mầm triệu Thơ mới đã khởi nguồn từ ngày nhà văn hóa Phạm Quỳnh (1892 - 1945) ý thức được những hạn chế của lối thơ cũ và dự cảm yêu cầu một sự đổi thay: “Người ta thường nói thơ là tiếng kêu tự con tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho nghề làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy, cho nó hay hơn, trúng vần trúng điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng thiên nhiên đi vậy” (Bàn về thơ Nôm - Nam Phong, số 5, tháng 11 - 1917; tr. 293 - 297). Thế rồi trải qua thử nghiệm của Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Tương Phố - những người tưởng đã một tay chạm được vào Thơ mới, phải chờ đến Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ xuất hiện thì dòng Thơ mới mới thật sự định hình.
2. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân có trích tuyển bài Tiếng thu và một lời bình thảng hoặc xa xôi: “Cảnh mộng có khi cũng có màu sắc như chiếc cáng điều lững thững trên sườn núi hay con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu”. Song cũng ngay từ trước 1945, Kiều Thanh Quế (1914 - 1947) đã dẫn giải rõ trong bài Thi sĩ Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu”: “Nhưng du dương nhứt, réo rắt nhứt và tượng trưng nhứt, có lẽ là khúc Tiếng thu tuyệt vời (...). Giá trị của bài Tiếng thu này, là ngoài việc phác được một âm thanh du dương, một nhạc điệu réo rắt, còn tượng trưng được một bức họa chấm phá : một bức thủy mặc Tàu, một tấm Kakemono Nhựt cũng nên!
Một tấm Kakemono Nhựt thì có lẽ đúng hơn! Vì tôi đã may mắn tìm ra được một tấm tranh Nhựt có những nét chấm phá hệt như bức họa Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Xin trình bày dưới đây, để tặng thi sĩ họ Lưu và để hiến tất cả độc giả từng nâng niu tập thơ Tiếng thu (Lược bản phiên âm - NHS)...
Bài thơ Nhựt ấy, tôi bất tài, không thể dịch y nguyên tác ra quốc văn nổi. Còn thoát ý nó, lại là việc thừa.
Vì trước tôi, Lưu Trọng Lư đã thoát ý nó, viết nên bài Tiếng thu rồi.
Vậy để làm quà cho những bạn hiếu kỳ, tôi chỉ xin chép hai bản Pháp văn của bài thơ Nhựt ấy (Lược hai bản dịch Pháp văn - NHS) (Tạp chí Tri tân, số 138, tháng 4 - 1944).
Tuy nhiên, Kiều Thanh Quế không cho biết xuất xứ. Nay xin nói thêm, bài thơ này từng được dẫn với đầy đủ nguyên bản tiếng Nhật, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ trong tập Le problème de la poésie Japonaise, Paris , 1938; tr. 38 - 39 (Tư liệu do cụ Nguyễn Hữu Đang cung cấp. Nhân đây xin cảm ơn cụ)...
3. Chúng ta đã biết cuộc luận chiến Mới - Cũ diễn ra quyết liệt song cũng cần biết kỹ hơn vai trò diễn đàn Phong hóa với các bỉnh bút như Nhất Linh (Thế nào là Thơ mới, số 36 - 1933; Nguyễn Thế Lữ - một nhân vật mới trong làng Thơ mới, số 54 - 1933; Sự cân nhắc chữ trong Thơ cũ và Thơ mới, số 68 - 1933...); Thạch Lam (Những lời phê bình đáng phê bình của một nhà phê bình phê bình một nhà phê bình, số 126 - 1934; Cuộc điểm báo, số 127 - 1934...)
Rồi những bài tường thuật của Ngộ Không (Một cuộc diễn thuyết ở Sài Gòn - vấn đề “Thơ mới... và Thơ cũ”, số 135 - 1935; Hanh, Kiêm tỉ thí lôi đài (chỉ Nguyễn Văn Hanh và Nguyễn Thị Kiêm - NHS chú), số 136 - 1935...).
Rồi còn khoảng chục bài đọc sách (1934 - 1935) của Lê Ta phân tích cái hay cái dở mọi nhẽ qua các tập thơ của Nguyễn Lan Sơn, Nguyễn Vỹ, Đức Văn, Nhuệ Thủy, Huy Thông, Thao Thao, B. Blan, Xuân Thiện, Tchya... Mới biết ngay từ buổi đầu Thơ mới cũng có sự phân hóa, đan xen tốt - xấu, hay - dở, cao - thấp, khen - chê, chứ không hề mát mái xuôi chèo.
4. Cũng cần phải nói thêm, trước khi Thi nhân Việt Nam ra đời, trước đó Hoài Thanh đã cho in bài viết Thơ mới trên Tiểu thuyết thứ Bảy (số 31, 29-12-1934) và phần đầu khảo luận Một thời đại trong thi ca với tựa đề Nguyên nhân sâu xa của phong trào Thơ mới trên Tạp chí Tri tân (số 25, tháng 11 - 1941)..v..v.. và ..v..v..
Dẫn dụ lại vài tư liệu trên đây, tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng câu chuyện phong trào Thơ mới vẫn còn ẩn chứa biết bao sự kiện, bao nhiêu khía cạnh, bao nhiêu mảng màu và chi tiết thú vị. Một phong trào Thơ mới hẳn sẽ hiện lên một cách hoàn chỉnh, sắc nét, sinh động hơn nữa nếu chúng ta sưu tập được đầy đủ ý kiến của những người trong cuộc, người đồng thời - “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”. Qua thời gian và những biến động lịch sử, công việc sưu tập này ngày càng trở nên khó khăn hơn. Trước mắt, xin kỳ vọng vào dịp kỷ niệm 70 năm phong trào Thơ mới (1932 - 2002), chúng ta sẽ có dịp tiếp xúc với một phần bộ tư liệu Thời Thơ mới bàn về Thơ mới...
Hà Nội, 1998 - 19.11. 2000

NGUYỄN HỮU SƠN
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.

  • TRẦN NHẬT THƯTrong tiến trình nghệ thuật nhân loại, bên cạnh một thế giới hết sức “quan phương”, “hoàn kết” bao giờ cũng là một “thế giới lộn trái” đầy mê hoặc.

  • NGUYỄN XỚNXét trên quy mô toàn cầu, vào những năm cuối của thế kỷ XX, trước sự phát triển phi mã của công nghệ và ý thức máy tính, văn học đã biểu hiện nhiều vấn đề rất đáng quan tâm. Thực tế này được mang vào thế kỷ mới một cách dễ dàng, không hề gặp một sự kiểm soát nào.

  • BÙI MINH ĐỨCLGT: Công trình khảo cứu dưới đây, phần lớn đã được công bố trong Hội thảo khoa học “Tây Sơn - Thuận Hóa và Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung”. Một số báo, tạp chí đã lược trích đăng một phần bài viết. Mới đây, tác giả-bác sỹ Bùi Minh Đức (Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Mũi Học Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Đức Quốc (FachArzt HNO), nguyên Chủ nhiệm Bộ Môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Khoa Huế trước 1975) đã gửi cho SÔNG HƯƠNG công trình khảo cứu này (có sửa chữa và bổ sung) để độc giả tạp chí có đầy đủ tư liệu. Trân trọng những lý giải khoa học hết sức mới mẻ của tác giả, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu toàn văn công trình này.

  • BỬU NAM Gặp Trần Đình Sử trong một hội thảo lớn toàn quốc, hội thảo "Tự sự học" do anh đồng khởi xướng và đồng tổ chức, tôi xin anh một cuộc trò chuyện về tình hình lý luận và phê bình văn học hiện nay. Anh vui vẻ gật đầu và nói: "Gì thì gì không biết, chứ với Tạp chí Sông Hương, tôi không thể khước từ. Trước hết, đây là một tạp chí văn học đứng đắn, có sắc thái riêng, vả lại còn là tình cố hương, bởi dù gì thì gì tôi vẫn là người con của xứ Huế cố đô."

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*

  • PHẠM PHÚ PHONGNguyễn Huy Thiệp là một trong những hiện tương văn học hiếm hoi. Ngay từ những truyện ngắn đầu tay như Huyền thoại phố phường, Muối của rừng, Tướng về hưu... tên tuổi của anh đã nổi bật trong và ngoài nước.

  • PHONG LÊ(Nhìn từ bình diện ngôn ngữ)Dân tộc là một phạm trù lịch sử. Văn học dân tộc do vậy cũng là một phạm trù lịch sử, hình thành và phát triển theo lịch sử.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN“…Tất cả những sự cách tân này cần thiết cho sau đó một chủ nghĩa cổ điển mới có thể xuất hiện…”            Paul Valéry

  • TRẦN HUYỀN SÂMNgười ta nói “Phê bình là bà đỡ cho tác phẩm”, nhưng người ta cũng nói: “Nhà phê bình là con chó ăn theo nhà văn”.

  • NHỤY  NGUYÊN thực hiện

     

    Thi nhân Việt Nam hiện đại  - bộ bản thảo trường thiên hoành tráng về nền thi ca Việt hiện đại dự tính 4.000 trang khổ 15,5 x 20,5 cm, bao gồm 2.200 trang tiểu luận và 1.800 trang tuyển thơ của nhà phê bình văn học Thái Doãn Hiểu.

  • NGUYỄN VĂN THUẤNLTS: Nhóm nghiên cứu, lý luận phê bình trẻ” bao gồm sinh viên và cán bộ giảng dạy trẻ đến từ các trường đại học ở Huế (chủ yếu là Khoa Ngữ văn - ĐHSP Huế), với sự chủ trì của Ts. Trần Huyền Sâm. Nhóm hình thành trong tháng 6 - 2008 vừa qua với sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương và Nhà sách Cảo Thơm.

  • Trong hoạt động văn học, cùng với mối quan hệ giữa tác phẩm với hiện thực, tác phẩm với nhà văn, mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong quy trình vận hành từ hiện thực - nhà văn - tác phẩm đến bạn đọc.

  • LTS: Ngày 19/12/2007, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, Hội đã có buổi ra mắt nhân dịp gặp mặt thân mật đại biểu cơ quan báo chí toàn quốc vào ngày 20/5/2008.Chúng tôi xin lược trích bài phát biểu của đồng chí Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

  • Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học hiện đại Việt .

  • Trong thập niên 1970 danh từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng lớn hơn, là khoa ký hiệu học.

  • Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.

  • Mới đây, trong khi tìm tài liệu ở Thư viện quốc gia, tôi tình cờ đọc bài báo thuộc thể loại văn hóa - giáo dục: “Giáo sư Vũ Khiêu - Học chữ để làm người” trên chuyên mục Trò chuyện cuối tháng báo An ninh Thế giới số tháng 9/2005, do Hồng Thanh Quang thực hiện.