Thơ văn xuôi của Chế Lan Viên

10:29 31/08/2009
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

Nhà thơ Chế Lan Viên - Ảnh: baoquangtri.vn

Đặc biệt là nghệ thuật thơ của bài “Cành phong lan bể”. Ta ngỡ ngàng khi đọc những câu thơ theo lối tự do này của ông: chúng đẹp cả về ngôn từ và tình ý, chúng khiến ta phải nghĩ khác đi về cái ta quen gọi là “Thơ Văn xuôi” - vốn thường hay bị coi như một thứ thơ “không vần” (và không hiếm khi được thực hiện bởi một bản lĩnh thơ xoàng nhưng lại nhân danh một tư duy nghệ thuật mới).

Thơ, cho dù là dưới bất kỳ hình thức nào - thơ cách luật, thơ tự do, thơ không vần - nó vẫn khác văn xuôi ở chỗ: bao giờ nó cũng phải có “nhạc điệu/nhạc tính” là cái vốn có được trước hết do sự hòa hợp khéo léo về thanh âm, sự lặp lại một cách tuần hoàn các âm thanh mạnh nhẹ hay cao thấp (mà ta quen gọi là “âm điệu”, “nhịp điệu”/ “tiết tấu”), gây khiến được ở nơi người đọc những ấn tượng, những cảm giác cần có.

Thơ không thể hay, nếu nhà thơ không giữ được cho câu thơ, đoạn thơ, bài thơ một nhịp thơ, bước thơ thích hợp.
Hãy thử xem một đoạn thơ sau, trong bài “Cành phong lan bể”, rất nổi tiếng của Chế Lan Viên, thường được trích dẫn như tiêu biểu cho phong cách thơ văn xuôi của ông. Đoạn thơ này nguyên văn trong bản in năm 1960 như sau:
Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu qua còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương đã biến thành con gái
Mỗi đêm hè da thịt sóng sinh sôi

Thoạt nhìn đoạn thơ trích dẫn trên, với những câu thơ dài suýt soát 20 chữ, rõ ràng không phải là lối thơ cách luật truyền thống. Nó khiến ta tưởng như Chế Lan Viên đang làm một thứ thơ rất tự do, rất mới, rất khác. Có vẻ như đây không phải là thơ đích thực, mà là một cái gì đó từa tựa như cái ông đã đặt tên cho nó: văn xuôi về một vùng thơ!

Cả đoạn thơ, bề ngoài, Chế Lan Viên chỉ xuống dòng và nối dòng thành có 04 câu thơ tự do khá dài: ngoại trừ câu cuối ngắn nhất là 08 chữ, ba câu còn lại có độ dài tăng tiến dần lên - câu thơ thứ nhất dài 18 chữ, câu thứ hai dài 19 chữ, và câu thơ thứ ba dài nhất 20 chữ. Dường như nó cũng y chang những bài thơ văn xuôi tầm tầm khác, với nhiều sự phá cách, xuống dòng khá tự do, nhiều khi không còn theo luật lệ ngữ pháp thông thường.

Nhưng xem ra thì không phải, và càng ngẫm kỹ thì càng thấy là không phải.
Đằng sau cái vẻ ngoài phóng túng ấy, ẩn sâu trong nó, hóa ra vẫn là thơ đích thực. Chế Lan Viên đã rất khéo léo tài hoa, vượt qua cái căn bệnh trầm kha mà ta thường hay mắc phải ở những câu thơ văn xuôi kiểu đó - ấy là cái bệnh nhịp thơ nặng nề, các bước thơ không hòa hợp, nó giống như một trái tim bị bệnh, không thể xướng họa theo dòng cảm xúc lúc buồn lúc vui của thi nhân, khi bừng lên, khi chậm xuống.

Để dễ thấy sự tinh diệu này của Chế Lan Viên, bây giờ, dựa theo các mạch lạc ngữ nghĩa và liên kết ngữ pháp của đoạn thơ, ta hãy thử sắp xếp lại các câu thơ với những bước thơ như sau:
Xanh biếc màu xanh//
Biển như hàng nghìn mùa thu qua /
Còn để tâm hồn nằm đọng lại //

Sóng như nghìn trưa xanh //
trời đã tan xanh ra thành bể /
và thôi không trở lại làm trời //

Nếu núi là con trai/
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương /
đã biến thành con gái //

Mỗi đêm hè /
da thịt sóng sinh sôi //

Tách hợp đoạn thơ lại theo cách như ở trên, khôi phục lại cấu trúc, câu cú của nó, giống như khi ta vẫn làm khi thưởng thức một đoạn văn xuôi tài hoa vậy, ngay lập tức cái diện mạo thực của đoạn thơ hiển lộ ra trước mắt ta. Hóa ra rằng, kỳ thực, trong nội bộ mỗi dòng thơ, Chế Lan Viên đều có tính toán phân nhịp, chia cắt thành những bước thơ.

Đoạn thơ tuy có 04 câu nhưng có tới 11 bước thơ, mỗi bước đều được ông hạn định về số lượng tiếng (chữ), chủ đạo là nhịp 05 và 07 tiếng (như thể ngũ ngôn và thất ngôn điển hình một thời Thơ Mới). Thêm nữa, cả ba câu thứ nhất, thứ hai và thứ ba đều gồm 03 nhịp như nhau, chỉ riêng câu cuối là 02 nhịp. Cụ thể như sau:

+ Câu thứ nhất: 03 nhịp
            - bước 1: 04 tiếng: Xanh biếc màu xanh
            - bước 2: 07 tiếng: biển như hàng nghìn mùa thu qua
            - bước 3: 07 tiếng: còn để tâm hồn nằm đọng lại
+ Câu thứ hai: 03 nhịp
            - bước 4: 05 tiếng: Sóng như nghìn trưa xanh
            - bước 5: 07 tiếng: trời đã tan xanh ra thành bể
            - bước 6: 07 tiếng: và thôi không trở lại làm trời
+ Câu thứ ba: 03 nhịp
            - bước 7: 05 tiếng: Nếu núi là con trai
            - bước 8: 10 tiếng: thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
            - bước 9: 05 tiếng: đã biến thành con gái
+ Câu thứ tư: 02 nhịp
            - bước 10: 03 tiếng: Mỗi đêm hè
            - bước 11: 05 tiếng: da thịt sóng sinh sôi

Tất cả những điều ấy làm cho đoạn thơ văn xuôi dường như quay trở về với lối thơ cách luật truyền thống, đọc lên đích thực có tiết tấu, nghe uyển chuyển và du dương.
Nhưng tài hoa Chế Lan Viên trong đoạn thơ đang dẫn không chỉ hiện hữu ở cái nghệ thuật tạo ra tiết điệu của thơ, mà còn ở những dụng công khác, ở những thủ pháp khác của ông.

Bên cạnh nhịp điệu, trước hết, phải nói tới vần điệu, một yếu tố quan trọng khác, làm nên nhạc tính của thơ.
Thơ văn xuôi thường được xếp cùng một ô, thậm chí đánh đồng với thơ không vần - trong nhiều nghiên cứu về thơ người ta vẫn hay viết vậy.
Nhưng điều này không hẳn đúng với Chế Lan Viên, ông là một trường hợp ngoại lệ, bởi thơ văn xuôi của ông có vần, và có vần rất khéo léo, tài hoa. Hãy trở lại đoạn thơ đã trích của ông (mà ta đã sắp xếp lại ở trên):

Xanh biếc màu xanh
bể như hàng nghìn mùa thu qua
còn để tâm hồn nằm đọng lại

Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời

Nếu núi là con trai
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
đã biến thành con gái

Mỗi đêm hè
da thịt sóng sinh sôi


Một cách hiển thị, ta có thể dễ dàng nhận ra 04 cặp vần của ông, lần lượt từ câu thơ đầu đến câu thơ cuối như sau: lại/ trời/ gái/ sôi. Nếu đi xuống một nấc cấu trúc nữa, đến các bước thơ, thì số các vần này sẽ tăng lên tới ở 07 vị trí: xanh/ lại/ xanh/ trời/ trai/ gái/ sôi.

Tất cả đoạn có 11 bước thơ mà có tới 07 bước có vần như thế, khi bắt vần xa khi bắt vần gần, được khéo léo ngụy trang trong những câu thơ văn xuôi dài 20 chữ, tưởng như thơ không vần, thực là tài hoa vậy thay!

Bảy bước vần ấy lại được âm vang thêm nhờ vào cách Chế Lan Viên sử dụng phép lặp từ trong nội bộ mỗi bước thơ và giữa các dòng thơ. Phép này làm cho nhịp thơ dễ được tạo ra hơn và làm cho nhạc tính của đoạn thơ được tăng thêm nhờ vào sự cộng hưởng âm thanh: cứ mỗi lần ta nghe một từ được lặp lại trong câu thơ thì cũng giống như mỗi lần ta hú trong rừng vắng và nghe tiếng vọng của ta hồi âm lại từ vách núi cao. Những âm thanh nối nhau, nương tựa vào nhau, hô ứng cho nhau, như những làn sóng gợn, đuổi nhau trên mặt hồ thu.

Hãy xem những dòng thơ có chứa các từ được Chế Lan Viên lặp lại (in đậm), chúng chỉ gồm 07 tiếng nhưng xuất hiện dày đặc trong mỗi dòng, tới 17 lần trong tổng số 57 tiếng (chữ) của cả đoạn. Cụ thể là: “xanh” - 04 lần, “bể” - 03 lần, “nghìn” - 02 lần, “trời” - 02 lần, “con” - 02 lần, “là” - 02 lần, “đã” - 02 lần:

Xanh biếc màu xanh
bể như hàng nghìn mùa thu qua
còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
đã biến thành con gái


Một yếu tố quan trọng khác, cùng với nhịp điệu và vần điệu, làm nên nhạc tính của thơ, đó là thanh điệu. Cần chú ý rằng: tất cả những khái niệm như “nhạc điệu”, “âm điệu” của một câu thơ, một đoạn thơ, hay cả bài thơ, đều là dựa trên ý niệm cơ bản về sự trầm bổng, cao thấp của các âm thanh, mà điều này thì gắn kết chặt chẽ với thanh điệu vốn là sự lên giọng hay xuống giọng trong lời.

Khác với tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Chăm v.v…, tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu; bởi vậy đi tìm nhạc tính của thơ tiếng Việt không thể không đặc biệt chú trọng tới 06 thanh điệu của nó, bao gồm: thanh Ngang (không được ghi dấu trên chữ viết), thanh Huyền, thanh Sắc, thanh Nặng, thanh Hỏi, thanh Ngã.

Một trong những quy luật hòa phối thanh điệu của thơ tiếng Việt là phải có sự đăng đối, đắp đổi về thanh: hoặc giữa các thanh Bằng (Ngang, Huyền) với các thanh Trắc (Sắc, Nặng, Hỏi, Ngã), hoặc giữa thanh Bằng Cao (thanh Ngang) với thanh Bằng Thấp (thanh Huyền), ở các tiếng (chữ) đứng cuối mỗi bước thơ.

Những câu thơ hay thường có sự “đổi thanh” như vậy. Hãy nhớ lại Xuân Diệu (chú ý những chỗ in đậm) thời Thơ Mới:

Mây biếc về đâu/ bay gấp gấp
Con cò trên ruộng/ cánh phân vân

và Hàn Mạc Tử:
Khách xa/ gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng/ chợt nhớ làng
và Huy Cận:
Gió về/ lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt/ bốn bề tâm
và bản thân Chế Lan Viên thời ấy:
Ai đâu/ trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi/ những lá vàng


Nhưng, hãy trở lại với đoạn thơ đang xét của Chế Lan Viên. Ta cũng thấy ở đây, trong mỗi câu thơ, cuối mỗi bước thơ, các tiếng (in đậm) thường có sự đổi thanh Bằng - Trắc, Cao - Thấp với nhau:
Xanh biếc màu xanh// bể như hàng nghìn mùa thu qua /
còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh // trời đã tan xanh ra thành bể /
và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai/ thi bể là phần yểu điệu nhất của quê hương/
đã biến thành con gái
Mỗi đêm hè / da thịt sóng sinh sôi

Và cũng như một số nhà thơ tài danh khác, Chế Lan Viên rất chú ý tới sự phân bổ và hòa phối thanh điệu giữa các tiếng trong mỗi dòng thơ. Trong trường hợp này, có thể thấy ông đã sử dụng phép đổi thanh giữa hai tiếng bắt đầu và kết thúc một bước thơ (những chữ in đậm):

Xanh biếc màu xanh //
bể như hàng nghìn mùa thu qua /
còn để tâm hồn nằm đọng lại //

Sóng như nghìn trưa xanh //
trời đã tan xanh ra thành bể /
thôi không trở lại làm trời //

Nếu núi là con trai/
thì
bể là phần yểu điệu nhất của quê hương /
đã biến thành con gái //

Mỗi đêm hè /
da thịt sóng sinh sôi//

Đoạn thơ gồm 11 bước nhưng có tới 07 bước tuân thủ quy luật đổi thanh Bằng - Trắc, cụ thể là như sau:
- bước 2: bể … qua
- bước 3: còn … lại
- bước 4: Sóng … xanh
- bước 5: trời … bể
- bước 7: Nếu … trai
- bước 8: thì … hương
- bước 10: Mỗi … hè
chỉ có 04 bước là có sự trùng thanh:
- bước 1: Xanh … xanh
- bước 6: và … trời
- bước 9: đã … gái
- bước 11: da … sôi

Nhưng cần thấy rằng đó là do tình ý của câu thơ buộc Chế Lan Viên phải chọn dùng những từ có thanh như vậy; và hơn nữa, ông đã rất dụng công xếp những bước thơ có sự trùng thanh này không đi sát cạnh nhau liên tiếp, nhờ vậy chúng không làm hỏng cái âm hưởng chung của câu thơ và cả đoạn thơ.

Để thấy rõ hơn tài thơ Chế Lan Viên ở đây, ta hãy thử mạo muội thay đổi thanh điệu và câu chữ ở một vài chỗ trong đoạn thơ và ta sẽ thấy ngay nhãn tiền cái hậu quả âm điệu tồi tệ của nó:
+ Nguyên văn:
Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời
+ Cải biên:
Mây như nghìn trưa xanh
mây đã tan xanh ra thành trời
và thôi không trở lại làm mây

Đổi thanh để đạt đến sự khác biệt, không trùng lặp về thanh điệu, làm cho câu thơ lên bổng xuống trầm, là một sự dụng công bậc thầy của Chế Lan Viên trong lối thơ văn xuôi ở “Ánh sáng và phù sa”. Hãy xem thêm điều này trong một trích đoạn khác, cũng rất nổi tiếng của ông:

Một mùi hương/ của rừng hồng hoang cổ đại/ khi rừng chết đi/ thì ánh nắng/ mùi hoa/ lời chim/ chất nhựa/ cũng vùi theo

Mùa xuân không biết/ không hay/ sáng ấy / vẫn lấy máu mình/ nuôi mạch lá



Với “Ánh sáng và phù sa”, Chế Lan Viên đã làm một cuộc hành trình “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.
Hơn thế nữa, có thể nói, ông đã thực hiện một chuyến bay thể nghiệm, từ khung trời thơ cách luật ra khoảng trời thơ tự do, và xa hơn, sang nẻo trời của thơ văn xuôi, rất thành công.
Nhưng… trời rất cao, rất xa và rất rộng.
Thơ ông vẫn không khỏi có chỗ vấn vương trong vòng truyền thống, với những khuôn thước thi luật ngàn năm.

Cho dù vậy, thì mấy ai đã có được những câu “văn xuôi về một vùng thơ” hay như của ông, đẹp như của ông, khéo léo và tài hoa như của ông, làm cho ông trở thành một trong số đôi ba nhà thơ ít ỏi đã có công dựng nên nền thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Còn gì quý hơn điều ấy với một nhà thơ!

Hà Nội, tháng Chạp 2007
L.T.T
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".