GIÁNG VÂN
LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.
Ảnh: internet
1.
“Em ngồi bên anh nhìn dòng sông/ chảy từ phía chân trời/ đầy nắng, mưa và gió.” (Trên đồi vọng cảnh).
Thường như vậy, thơ Trương Đăng Dung bắt đầu và tiếp tục bằng những câu, những hình ảnh, thậm chí miêu tả rất đơn giản. Đơn giản đến nỗi chúng ta ai cũng từng nhìn thấy, cũng từng trải qua.
Nhưng cái khác đó là sự vang vọng của cảm xúc, gợi ra một sự cao, xa, rộng và sâu của không gian và thời gian.
Cái dòng sông mà nhà thơ nói tới là dòng sông của sự ưu tư triết học, nó đã chảy từ vô tận thời gian, không gian, “đầy nắng, mưa và gió”, chảy trong mỗi sát na của đời sống. Dòng sông đó chảy qua cuộc đời mỗi chúng ta cho dù ta biết hay ta không biết.
“Chảy về đâu sông ơi/ sao chỉ thấy một con thuyền thấp thoáng?”
Cái mà chúng ta nhìn thấy bằng con mắt trần thế, chỉ một trong muôn vàn. Cái mà chúng ta muốn cầm giữ thực ra là chỉ là huyễn ảnh.
Nhưng huyễn ảnh trong giây phút nó từng đi qua, trong cái đời sống ngắn ngủi của đời người, trong một sát na của triệu triệu sát na, kỳ diệu thay nó có sự ấm nóng của sự sống, của tình yêu con người, của nhà thơ. Trương Đăng Dung nhận ra điều đó bằng chính sự khắc khoải của thi nhân. Dường như, bằng toàn bộ sự cố gắng trong sự tuyệt vọng, khắc khoải của mình, nhà thơ đã dùng thứ kí tự của loài người hòng lưu lại sự ấm nóng đó, để chống lại quy luật khắc nghiệt của thời gian, của đời sống.
Trong bài “Vật chứng”, Trương Đăng Dung viết:
“Sợ bóng tối tràn vào/ khi em mở tung của sổ/ cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ/ sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ/ sợ căn phòng trở nên trống rỗng/ khi em xếp lại chăn màn/ ký ức không còn nơi ẩn náu”
Xuân Diệu từng viết: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, ông cũng mang cái cảm thức thời gian mà Trương Đăng Dung có, nhưng ở Trương Đăng Dung mang một chiều sâu, nặng hơn, lặng hơn mà buồn thương kỳ lạ.
“Thành phố phía chân trời/ một căn phòng một cái giường hai chiếc gối/ một đôi mắt buồn/ mười ngón tay thức dậy trước bình minh/ bao nhiêu lần khép cửa/ em vẫn thấy mình chưa ở bên trong” (Thành phố phía chân trời).
Thời gian, đó là sự trải dài bất tận những sự lặp lại các hạnh phúc giống nhau, bất hạnh giống nhau, tội ác, dối trá, bạo lực… giống nhau đến đau lòng. Đau lòng vì những kiếp nạn mà con người vì sự vô minh đã không nhận ra:
“Người đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/ ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày” (Ghi chép hè 2009).
Và tiếp:
“Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/ máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn/ không thấy kẻ gây tội ác/ chỉ thấy nạn nhân/ và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ”
Điều kinh khủng là tất cả đã biến mất, đã trôi về những quá khứ không còn vật chứng, những quá khứ từng đầy ắp tất cả, vui buồn, gian khó, thương đau, máu và nước mắt của cả một cộng đồng cho đến mỗi cá nhân. “Cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn ký ức/ những giọt máu cuối trời tuổi thơ…”
Cứ như vậy, giọng thơ Trương Đăng Dung nhẹ như một hơi thở, một lời tự sự, nhưng trong một thế giới ồn ào, náo nhiệt, đảo điên, thì sự khiêm nhường từ những câu thơ của thi nhân lại có một sức vang động, day dứt không ngờ. Bởi, trong mỗi một tình riêng, trong mỗi phiền muộn hay buồn thương của một cá thể trong đời sống bây giờ, hiện thời, đã mang dấu vết, đã là hiện thân, đã phóng chiếu cho chúng ta thấy quá khứ và tương lai của toàn thể mọi kiếp người.
“Còn đây gương mặt của con người/ nhàu nát mưu sinh và hy vọng/ thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/ xao xuyến những mùa thu gió thổi…”
2.
“Thấy không em đường chân trời trước mặt?/ anh đã từng đến đó trong mơ/ có khi như Jesu đi trên mặt nước/ lòng anh cao thượng sáng trong/ có khi như một tên tội phạm/ anh bước đi uất hận trong lòng/ có khi như một đứa trẻ/ hân hoan ngơ ngác chờ mong…” (Chân trời).
“Anh và em đi trên mặt đất này/ giữa những bức tường ta xây và phá/ nhưng tất cả đều bị bao quanh/ bởi những bức tường không nhìn thấy/ …khi ta ngước mắt nhìn trời xanh/ trên mặt đất đã có những bức tường/ khi ta cúi xuống nhìn mặt đất/ xung quanh ta đã có những bức tường/…những bức tường ta không xây/ những bức tường không thể phá/ đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những bức tường này” (Những bức tường).
“Tôi chạy trên bức tường dựng đứng/ những con nhện đen đuổi theo/ những con thằn lằn đen đuổi theo/ …tôi chạy trên cánh đồng bỏ hoang/ những người khiếm thị ôm súng đuổi theo/ những người khiếm thính cầm loa đuổi theo/ tôi chạy trên đại lộ không người/ những chiếc xe lăn chất đầy chân giả đuổi theo/ những chiếc xe nôi chứa đầy mắt trẻ em đuổi theo/ tất cả áp sát tôi/ tôi nói, họ không hiểu/ họ nói, tôi không hiểu” (Ác mộng).
“Tai họa bất ngờ ập xuống/ những đứa con bị giết/ những người bạn hiểu sai/ nỗi đau này/ như mũi tên/ Đấng Toàn Năng bắn vào tim Giop/ không ai tin Giop là người công chính/ …trong mắt Đấng Toàn Năng/ không có mặt trăng nào đủ sáng/ không có vì tinh tú nào đủ sạch/ loài người như sâu bọ/ con cái loài người khác chi một loại côn trùng/ …Giữa nỗi đau và đức tin/ sợ hãi và quyền uy/ Giop thỏa hiệp” (Sách của Giop).
Trương Đăng Dung, nhận ra, tôn giáo phần nhiều không gì khác hơn là những bức tường thành dựng lên giữa những con người với nhau. Đức tin của mỗi người là những tường thành họ tự dựng lên với kẻ khác. Thế giới của chúng ta là vô số những tường thành kiên cố và vô hình. Con người thống khổ triền miên bất tận trong những bức tường vô minh của mình. Họ chiến đấu và những cuộc chiến dường như không có hồi kết bởi những bức tường quanh mình. Trong cuộc chiến đó, con người nhân danh đức tin của mình để tạo ra cái ác. Rồi cái ác lại đẻ ra cái ác. Trong Phật giáo, nó tạo ra nghiệp quả. Nghiệp quả của một cá nhân, nghiệp quả của cả một cộng đồng, nghiệp quả của cả một dân tộc…
Trong thơ Trương Đăng Dung rất nhiều những giấc mơ, thậm chí, mơ ngay khi đang tỉnh thức. Những cơn mơ là những dự báo từ vô thức về hiện tại và tương lai. Chính là vô thức, trực giác thi nhân cho anh ta bảo bối có thể nhìn thẳng, nhìn thấu tận cốt lõi vấn đề, mà bằng lí trí ta không dễ nhìn thấy.
Trong “Tự do của Kazantzaki”, “Tinh thần Kafka”, “Giấc mơ của Kafka”, “Sách của Giô-na”… những suy tư triết học của Trương Đăng Dung cũng cho thấy những bất cập của những bức tường vô hình đã và đang dựng lên giữa con người với nhau, giữa con người với hạnh phúc của chính họ.
Những suy tư triết học này không bị nhàm chán, khô cứng, bởi nó sinh ra từ trải nghiệm, vui buồn, xúc cảm gắn với đời sống của thi nhân, và được anh ta viết ra bằng một thứ ngôn ngữ đẹp, đơn giản, nhưng truyền cảm.
3.
Bài thơ “Những con kiến” là cái nhìn từ trên cao về lịch sử loài người, về sinh tồn, về những tai họa, những cơn đại hồng thủy, về cái chết và sự sống tiếp nối, không ngừng chuyển động, không một giây dừng lại cho dù thương đau và bất hạnh không ngừng đổ xuống, ngẫu nhiên, không được báo trước. Nhà thơ viết: “Số phận và lo toan của kiến làm sao tôi hiểu được?/ Chỉ có kiến mới hiểu và chịu đựng được số phận của kiến mà thôi!”
Điều này không phải là một phát kiến. Cũng như những suy tư triết học trong thơ Trương Đăng Dung, không phải là những phát hiện mới, nhưng thấm đẫm nỗi niềm nhân sinh, thấm đẫm tình yêu với đời sống hiện tồn, cũng là duyên do của thơ.
Chết, sự kết nối thần bí của âm dương, đen trắng, bóng tối và ánh sáng, giữa linh hồn và thể xác vật chất luôn là sự hấp dẫn của những tâm hồn phương Đông. Một con người ở xứ sở này khi rời xa thế gian, không có nghĩa họ đã kết thúc đời sống. Mà họ sẽ tiếp tục tồn tại dưới một dạng thức khác. Họ vẫn hiện diện đâu đó trong không gian, quanh những người còn sống. Vẫn còn mang nỗi khắc khoải của chính họ trên cõi đời, những khắc khoải cũng đã cũ mèm, nhưng luôn mới trong những cuộc đời kẻ khác:
“Con thấy bố về đêm qua/ ngoài đồng xa/ hiu hắt trăng treo/ nhiều cái bóng vật vờ cùng đom đóm/ bố bảo dưới đất còn bom/ xương người chết/ lẫn với mìn chưa nổ/ con gọi bố/ chỉ nghe tiếng gió/ một vệt sáng vút qua/ sáng nay trong gương/ con bắt gặp ánh mắt buồn của bố/ tuổi năm mươi/ có gì mới hơn sau mỗi kiếp người?/ con hỏi bố/ thấy một người già đứng lặng lẽ nhìn con” (Giấc mơ của con).
Chết, ở góc độ khác, còn là sự hòa mình vào một đời sống khác. Chết là khi được thấy linh hồn con người bình đẳng với linh hồn vạn vật.
“Đêm vẫn ôm tôi im lặng/ như đất ôm xương người” (Đêm ở Roma).
“Tôi đi giữa mọi người, bên những hàng cây im lặng, lòng thầm biết ơn thân cây nào rồi đây ngã xuống, xẻ mình ra ôm tôi về cát bụi/ tôi không mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết già.” (Tự bạch).
4.
Như lúc đầu tôi có nói về sự đơn giản, rõ ràng, mạch lạc của những hình ảnh trong thơ Trương Đăng Dung. Ở đó, dĩ nhiên phải nói đến ngôn ngữ, một cái vỏ ngôn ngữ ôm chứa trong nó một nội hàm thi ca của mà thi nhân muốn truyền tải.
Cái vỏ ngôn ngữ thơ Trương Đăng Dung sử dụng, không hề tìm kiếm sự dị biệt, khác lạ, không thấy bàn tay của sự kỳ công đẽo gọt, tỉa tót. Đó cũng chính là sự thuận lợi cho người đọc tiếp cận dễ hơn với thế giới thi ca của anh. Ngôn ngữ, nó chỉ thực sự lợi hại khi là một thể thống nhất hữu cơ với cái nó biểu đạt.
Thế nhưng điều đáng ngạc nhiên ở đây, là trong một vỏ ngôn ngữ cực kỳ thuần khiết, mạch lạc, thơ Trương Đăng Dung lại chứa đầy sự huyền bí.
Sự huyền bí, biên ảo giữa cái có và cái không, cái hư và cái thực, sự trộn lẫn, hoán đổi giữa những thời gian khác nhau, không gian khác nhau trong những dòng chảy của đời người, của lịch sử tạo nên hấp dẫn lôi cuốn trong không gian thơ của thi sĩ.
“Anh cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay” (Có thể).
“Anh nhìn vào mắt em/ thấy hình anh ở đấy/ nếu mắt em khép lại/ ảnh hình kia chỉ còn lại trong em/ anh không còn anh trong hiện tại/ chỉ thấy em với những hình nhưng ảnh/ của mùa hè đang qua/ một góc vườn và mấy khóm hoa” (Ảo ảnh).
Trong bài thơ “Trong quán cà phê piano”, sự nối tiếp bí ẩn của sự sống từ một cái chết là một phát hiện: trong quán cà phê có một nghệ sĩ dương cầm đã mất. Nhưng đêm đêm, những người đến đây uống cà phê, trong họ nghệ sĩ vẫn còn sống bằng tấm tình, nỗi niềm của anh gửi vào tiếng đàn mà họ từng nghe, từng yêu.
Hay thi sĩ khi nghĩ về cái chết của mình sẽ được một cái cây nào đó ôm mình vào lòng.
Hay khi thi sĩ nói rằng, “Anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu không lời/ ẩn mình trong khóe mắt làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi” (Anh không thấy thời gian trôi).
Sự bí ẩn, huyền hoặc của thơ Trương Đăng Dung còn ở chỗ, thi sĩ đã vượt thoát khỏi cái cụ thể trực quan để đạt đến tính phổ quát, biểu tượng.
Thời gian, không gian, sự sống, cái chết, đức tin, nỗi đau của kiếp người... ở Trương Đăng Dung đều là ẩn dụ, hoán dụ, hay là biểu tượng, vì vậy, nó mang tính phổ quát. Tựa đề tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” cũng là một ví dụ cho ý kiến này.
Điều cuối cùng tôi muốn nói tới về thơ Trương Đăng Dung, đó là, với tất cả những điều trên, Trương Đăng Dung đã thực sự tạo dựng được một thế giới thơ của riêng mình, với một vẻ đẹp không trộn lẫn. Đó là điều mà bất cứ một người làm thơ nào cũng mong ước đạt đến.
Hà nội ngày 18/8/2018
G.V
(TCSH354/08-2018)
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)