Thơ trẻ Huế dưới dấu hiệu của một phong trào

16:05 04/12/2012

PHẠM TẤN HẦU

Trong bản tham luận về mảng thơ trên trang viết đầu tay của Tạp chí Sông Hương do anh Hoàng Dũng trình bày tôi thấy có chủ ý nói đến tính khuynh hướng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra một cách chặt chẽ, sâu sắc. Theo tôi, nếu hướng cuộc thảo luận đến một vấn đề như vậy chắc sẽ đem đến cho những người viết trẻ nhiều điều bổ ích hơn.

Nhà thơ Phạm Tấn Hầu - Ảnh: LVT

Với tư cách một người có làm thơ, tôi cảm thấy vấn đề đó luôn đặt ra cho mình những băn khoăn: viết như thế nào? Thể hiện nó ra sao? Hệ quả của nó như thế nào? và có đúng nó gần gũi với thiên hướng của mình chăng?

Vậy thì, mối quan tâm trước hết đối với những người viết trẻ, những người đang cố gắng chuyển dịch cái mình cảm thụ thành "Những tác phẩm nghệ thuật", đầu tiên tôi nghĩ vẫn là vấn đề: tính khuynh hướng và hình thức thể hiện.

Ở đây, trong khuôn khổ một ý kiến nhỏ được góp vào buổi Hội thảo tôi cho rằng điều đáng được chúng ta nói đến nhiều hơn cả là những nỗ lực của các bạn ấy trong "công việc chuyển dịch", có tính cách sáng tạo nói trên. Những nỗ lực mà nếu thiếu mất, thì chúng ta lại thấy hiện trên những bản văn bóng dáng của sự già nua tẻ nhạt. Nỗ lực của sự tìm kiếm không dứt. Tìm kiếm vì thơ không dừng lại là một cách nhận thức, mà là một cách sống trọn vẹn nhất. Sống với thời đại của nó. Thời đại mà khoa học kỹ thuật không ngừng thay đổi, khiến tinh thần của nó cũng trở nên quyết liệt hơn một thời. Trong tinh thần ấy, cuộc đấu tranh của mỗi thế hệ có một ý nghĩa: rút ngắn dần khoảng cách, đồng thời với việc thể hiện đầy đủ nhất sự tồn tại của mình. Trước nhu cầu đó, họ cần có một vũ khí hiện đại hơn, một khuynh hướng táo bạo hơn và một hình thức tiếp cận với cuộc sống mới mẻ hơn. Nếu trước đây người ta chưa quen với lối biểu hiện của thơ Voznexenxky như một nhà thơ lão thành, Axêep đã từng thú nhận "Tôi đã không đánh giá đúng mức khi đọc những bài thơ đầu của Voznexenxky. Cái đó không phải lỗi tác giả mà tại tôi chưa quen với loại thơ mới mẻ ấy"; thì nay Voznexenxky đã trở thành một hiện tượng của nền thơ Xô viết. (Xin cám ơn nhà thơ Axêep đã nói những lời chân thành!).

Và còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm gì để thúc đẩy quá trình thể nghiệm khám phá của các bạn trẻ được diễn ra một cách trọn vẹn, tốt đẹp. Bởi vì dẫu sao quá trình đó vẫn cần thiết một chất xúc tác để có thể "xảy" ra một hiện tượng.

Tôi thành thật lo ngại rằng, quá trình trên chưa được diễn ra bao lâu, thì đâu đó đã sẵn sàng đơm đặt những mạch cắt. (Tạp chí Sông Hương số 21. "Nhìn lại 10 năm Văn học Bình Trị Thiên" và Văn hóa Bình Trị Thiên số 21 "Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ nhiều trăn trở!"). Nơi này nhà phê bình than vãn "Cây bút trẻ chưa đáp ứng yêu cầu". Nơi kia nhà phê bình nọ cho rằng: "Giọng thơ lọng ngọng..." và cũng có trường hợp muốn lật đi lật lại từng chữ trong trang viết đầu tay với nghề nghiệp của một người chấm luận văn.

Có phải cần đọc thơ với đôi kính như thế chăng, nhất là đối với trang viết đầu tay của một tác giả trẻ? và thật ra với cách đó, họ có thể xóa bớt nhiều tác phẩm của bất cứ nhà văn nhà thơ lớn nào trên thế giới mà họ đụng đến. Lấy trường hợp Saint John Perse làm ví dụ. Khi trao giải Nobel 1960 cho ông người ta nhận định "Chúng ta có thể thấy đằng sau cái vẻ bề ngoài bưng bít khó hiểu, và những hình tượng nhiều khi rất khó vào, Saint John Perse đã đem lại những sứ mệnh lớn lao cho những người đồng thời với ông".

Vẻ bề ngoài bưng bít, và những hình tượng nhiều khi rất khó vào... Phải chăng là những thách thức không thể nào vượt qua đối với những nhà phê bình, khi đã từ bỏ vai trò tiên phong của mình đối với nền văn học tiến bộ?

Tất nhiên ở đây tôi không dám kèm theo một ngụ ý so sánh nào. Nhưng có thể nào những nhà thơ lớn, những thiên tài lại bỏ qua những trang viết đầu tay. Vấn đề có tính nhân bản, và ưu việt là làm thế nào để có thêm một Mozart mới, hay ít ra cũng để không phải buột miệng than "trong mỗi chúng ta đã có 1 Mozart đã chết" như Saint Exupery.

Với trang viết đầu tay, người đọc có thể thấy rằng, tạp chí Sông Hương không có ý trình làng "những tác phẩm lớn"; mà có lẽ mong mỏi tìm thấy một vài dấu hiệu của chất vàng. Phải chắt lọc rất nhiều. Phải làm đất kỹ hơn nữa, và có lẽ, trong cuộc vận động như vậy, những điều chúng ta thấy được mới chỉ là sự ướm thử của một sức lực tinh khôi nào đó. Chúng ta chưa có thể đánh giá đầy đủ được, nhưng chúng ta tin vào những nhân tố đó. Chúng ta trân trọng với thiện chí của tạp chí Sông Hương, và càng biết trân trọng hơn với sức lực trẻ trung đó.

Riêng tôi, một thời gian sinh hoạt ở trong Câu lạc bộ Văn học trẻ Huế, tôi đã có dịp đọc một số trang viết đầu tay dưới dạng bản thảo, và tôi gần như hiểu được những gì họ mơ ước trước thế giới văn học. Bản văn mà họ mang tới ngưỡng cửa văn học ngày nay không phải dành dâng tặng, xưng tụng mà đòi hỏi sự tham gia của người đọc. Họ viết văn với tư cách là người tư duy, chứ không chỉ với tư cách là người cảm xúc. Tôi không nông nỗi để quy tất cả điều này vào khuynh hướng triết lý, cho rằng họ cố tình làm già đi cái tuổi trẻ của mình. Bởi vì rõ ràng có rất nhiều vấn đề của cuộc sống đất nước, con người và thế giới đang bùng nổ, ảnh hưởng sâu sắc đến họ, những người luôn muốn đến với tâm điểm nóng. Dưới một tác động như thế người ta dễ dàng đưa vấn đề lên một mức khái quát cao hơn. Một số bài thơ đã gây trong tôi một ấn tượng như vậy. Có khi, tôi bỗng nhìn ra một cái nhìn khác với cách trình bày rất lạ.

Chúng ta cách nhau nửa vòng xe lăn nửa vòng trái đất
Để đến được cùng em tôi đã đi thay tốc độ thường ngày
                        (Sông Hương số 11 Xuân Ất Sửu)

Một đoạn trong một bài thơ khác, đã thuyết phục các biên tập viên Tạp chí Sông Hương ngay trong một đêm đọc thơ ở câu lạc bộ văn học trẻ Huế, để sau đó tạp chí có quyết định giới thiệu ngay như một tác giả (Sông Hương số 9).

Xin lặng im
Lắng nghe tiếng những bàn tay xoay khối ru bích
Những hạt lúa quay cuồng trong máy xát
Người nhạc sĩ ngồi ghi từng nốt nhạc
Những ống khói rất trẻ
            và những đàn chim sẻ
            giật mình bay lên trời,
***
Những người mẹ có mang đang mỉm cười...

Với cả hai bài thơ nêu trên, chúng ta không còn đọc ở đây cái "cảm xúc kiểu văn chương thuần túy nữa", mà nó đòi hỏi chúng ta phải tham gia một cách trọn vẹn vào điều nó đang nói tới. Những tác giả trẻ ngày càng muốn người cảm thụ với người sáng tạo là một. (Phải chăng đây cũng là một dấu hiệu của quá trình dân chủ hóa trong văn chương?)

Khuynh hướng đối thoại ấy (có thể gọi như vậy) tạo cho tôi cái cảm giác phải luôn quay lại nhìn mình. Hình như, đôi lúc tôi đã bỏ một giai đoạn nào đó, một cái gì đó; mà giờ đây chỉ có họ mới cảm thụ được. Đúng hơn, tôi đã bị thuyết phục, phải học tập ngôn ngữ, hình thức thể hiện của họ để sống lại cái cảm giác tươi mát do sức và thói quen cũ kỹ làm già đi.

Và có thể nói, trong cái không khí đó, tôi đã có được những tình bạn mới. Qua trang viết đầu tay, các bạn trẻ đã nghe được những tiếng nói đồng cảm, tìm đến nhau, để cùng chia sẻ hoài bão lớn của mình. Vậy là vô hình chung, một phong trào viết trẻ đã được khởi động, và được hưởng ứng rộng rãi. Nhiều cây bút trẻ xuất hiện trên tạp chí với tư cách là tác giả. Nhiều người được kết nạp vào Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên.

Theo tôi đó là điều chúng ta có thể khẳng định được, bởi vì, ở một tờ báo khác (lấy tờ Văn nghệ Bình Trị Thiên trước đây làm ví dụ) chắc gì chúng ta có được một đội ngũ như vậy, cùng xuất hiện một loạt trong vòng chỉ một hai năm.

Trong bối cảnh đang có dư luận nghi ngờ về sự tồn tại của thơ ca; cho rằng thơ đang mất dần vị trí của mình và đang lạm phát những nhà thơ(!), thì sự xuất hiện của những cây bút trẻ quả là một hiện tượng. Nó gần như một nỗ lực mới đang tích tụ lại, hướng đến một câu trả lời về tình hình trên.

Giữa lúc đó, chúng ta đã làm gì? Không ít người trong chúng ta để ngủ yên trong nếp nghĩ một thói quen "thà tỏ ra nồng nhiệt với một bài thơ của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử... thà ảnh hưởng Baudelaire hơn là đến với bài thơ của tác giả trẻ có giọng kiểu Voznexenxky.

Vậy đó, cái hôm nay có trở thành lịch sử hay không tùy thuộc ở tất cả chúng ta. Thế nhưng, đôi khi chúng ta đã không đánh giá hết những gì đang xảy ra với họ, hoặc tìm cách bài bác tính cách tồn tại của họ. Hình như đang có một thành trì gìn giữ cảm quan của chúng ta rất kỹ. Trước thành trì này, một nhà thơ lớn đã phải coi "là nhà thơ, kẻ nào giúp ta đập tan mọi thói quen dễ dãi..."

Nuôi dưỡng một tham vọng như vậy là hoàn toàn chính đáng. Phía độc giả, và những nhà phê bình tiên tiến khi đánh giá về họ, những cây bút trẻ, cái cần đặt lên bàn chân trước tiên phải là nỗ lực đó. Và hôm nay nếu họ chọn một tiếng nói mới có vẻ lạ với chúng ta, thì không phải vì sự tình cờ, vì lập dị, mà vì họ có tâm tình mới, những mơ ước mới; cho dẫu những tâm tình ấy, những mơ ước ấy chưa bao giờ đến, hoặc không bao giờ đến nữa với chúng ta!

Đã qua rồi cái thời phải tôn thờ một khuynh hướng, một hình tượng cần thiết cho cuộc tuần đạo. Ngày nay cuộc sống mới mở ra rộng lớn hơn; và thơ ca nếu không tự mình làm phong phú thêm bằng tư duy mới, khám phá mới, tất yếu sẽ chịu mất vòng nguyệt quế của mình.

Người đốn củi
đã biến thành cái cây
người đốn củi khác
đến chặt
và tự nhận lượt mình
biến thành cây
……..
                        (Yanis Ritsos)

Một sự liên tục có tính kế thừa, đã diễn ra như vậy, để nghệ thuật không bao giờ cũ kỹ. Trang viết đầu tay trên tạp chí Sông Hương là sự chuẩn bị cho tính chất ấy. Mọi sự lặp lại tiếng nói của quá khứ đều có nghĩa như tự mình phế bỏ quyền thừa kế của mình. Bởi vì đây là đất cần khai phá, cần được dũng cảm cách tân; đây là miền đất trẻ…

P.T.H
(SH24/4-87)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".