PHẠM TẤN HẦU
Trong bản tham luận về mảng thơ trên trang viết đầu tay của Tạp chí Sông Hương do anh Hoàng Dũng trình bày tôi thấy có chủ ý nói đến tính khuynh hướng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra một cách chặt chẽ, sâu sắc. Theo tôi, nếu hướng cuộc thảo luận đến một vấn đề như vậy chắc sẽ đem đến cho những người viết trẻ nhiều điều bổ ích hơn.
Nhà thơ Phạm Tấn Hầu - Ảnh: LVT
Với tư cách một người có làm thơ, tôi cảm thấy vấn đề đó luôn đặt ra cho mình những băn khoăn: viết như thế nào? Thể hiện nó ra sao? Hệ quả của nó như thế nào? và có đúng nó gần gũi với thiên hướng của mình chăng?
Vậy thì, mối quan tâm trước hết đối với những người viết trẻ, những người đang cố gắng chuyển dịch cái mình cảm thụ thành "Những tác phẩm nghệ thuật", đầu tiên tôi nghĩ vẫn là vấn đề: tính khuynh hướng và hình thức thể hiện.
Ở đây, trong khuôn khổ một ý kiến nhỏ được góp vào buổi Hội thảo tôi cho rằng điều đáng được chúng ta nói đến nhiều hơn cả là những nỗ lực của các bạn ấy trong "công việc chuyển dịch", có tính cách sáng tạo nói trên. Những nỗ lực mà nếu thiếu mất, thì chúng ta lại thấy hiện trên những bản văn bóng dáng của sự già nua tẻ nhạt. Nỗ lực của sự tìm kiếm không dứt. Tìm kiếm vì thơ không dừng lại là một cách nhận thức, mà là một cách sống trọn vẹn nhất. Sống với thời đại của nó. Thời đại mà khoa học kỹ thuật không ngừng thay đổi, khiến tinh thần của nó cũng trở nên quyết liệt hơn một thời. Trong tinh thần ấy, cuộc đấu tranh của mỗi thế hệ có một ý nghĩa: rút ngắn dần khoảng cách, đồng thời với việc thể hiện đầy đủ nhất sự tồn tại của mình. Trước nhu cầu đó, họ cần có một vũ khí hiện đại hơn, một khuynh hướng táo bạo hơn và một hình thức tiếp cận với cuộc sống mới mẻ hơn. Nếu trước đây người ta chưa quen với lối biểu hiện của thơ Voznexenxky như một nhà thơ lão thành, Axêep đã từng thú nhận "Tôi đã không đánh giá đúng mức khi đọc những bài thơ đầu của Voznexenxky. Cái đó không phải lỗi tác giả mà tại tôi chưa quen với loại thơ mới mẻ ấy"; thì nay Voznexenxky đã trở thành một hiện tượng của nền thơ Xô viết. (Xin cám ơn nhà thơ Axêep đã nói những lời chân thành!).
Và còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm gì để thúc đẩy quá trình thể nghiệm khám phá của các bạn trẻ được diễn ra một cách trọn vẹn, tốt đẹp. Bởi vì dẫu sao quá trình đó vẫn cần thiết một chất xúc tác để có thể "xảy" ra một hiện tượng.
Tôi thành thật lo ngại rằng, quá trình trên chưa được diễn ra bao lâu, thì đâu đó đã sẵn sàng đơm đặt những mạch cắt. (Tạp chí Sông Hương số 21. "Nhìn lại 10 năm Văn học Bình Trị Thiên" và Văn hóa Bình Trị Thiên số 21 "Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ nhiều trăn trở!"). Nơi này nhà phê bình than vãn "Cây bút trẻ chưa đáp ứng yêu cầu". Nơi kia nhà phê bình nọ cho rằng: "Giọng thơ lọng ngọng..." và cũng có trường hợp muốn lật đi lật lại từng chữ trong trang viết đầu tay với nghề nghiệp của một người chấm luận văn.
Có phải cần đọc thơ với đôi kính như thế chăng, nhất là đối với trang viết đầu tay của một tác giả trẻ? và thật ra với cách đó, họ có thể xóa bớt nhiều tác phẩm của bất cứ nhà văn nhà thơ lớn nào trên thế giới mà họ đụng đến. Lấy trường hợp Saint John Perse làm ví dụ. Khi trao giải Nobel 1960 cho ông người ta nhận định "Chúng ta có thể thấy đằng sau cái vẻ bề ngoài bưng bít khó hiểu, và những hình tượng nhiều khi rất khó vào, Saint John Perse đã đem lại những sứ mệnh lớn lao cho những người đồng thời với ông".
Vẻ bề ngoài bưng bít, và những hình tượng nhiều khi rất khó vào... Phải chăng là những thách thức không thể nào vượt qua đối với những nhà phê bình, khi đã từ bỏ vai trò tiên phong của mình đối với nền văn học tiến bộ?
Tất nhiên ở đây tôi không dám kèm theo một ngụ ý so sánh nào. Nhưng có thể nào những nhà thơ lớn, những thiên tài lại bỏ qua những trang viết đầu tay. Vấn đề có tính nhân bản, và ưu việt là làm thế nào để có thêm một Mozart mới, hay ít ra cũng để không phải buột miệng than "trong mỗi chúng ta đã có 1 Mozart đã chết" như Saint Exupery.
Với trang viết đầu tay, người đọc có thể thấy rằng, tạp chí Sông Hương không có ý trình làng "những tác phẩm lớn"; mà có lẽ mong mỏi tìm thấy một vài dấu hiệu của chất vàng. Phải chắt lọc rất nhiều. Phải làm đất kỹ hơn nữa, và có lẽ, trong cuộc vận động như vậy, những điều chúng ta thấy được mới chỉ là sự ướm thử của một sức lực tinh khôi nào đó. Chúng ta chưa có thể đánh giá đầy đủ được, nhưng chúng ta tin vào những nhân tố đó. Chúng ta trân trọng với thiện chí của tạp chí Sông Hương, và càng biết trân trọng hơn với sức lực trẻ trung đó.
Riêng tôi, một thời gian sinh hoạt ở trong Câu lạc bộ Văn học trẻ Huế, tôi đã có dịp đọc một số trang viết đầu tay dưới dạng bản thảo, và tôi gần như hiểu được những gì họ mơ ước trước thế giới văn học. Bản văn mà họ mang tới ngưỡng cửa văn học ngày nay không phải dành dâng tặng, xưng tụng mà đòi hỏi sự tham gia của người đọc. Họ viết văn với tư cách là người tư duy, chứ không chỉ với tư cách là người cảm xúc. Tôi không nông nỗi để quy tất cả điều này vào khuynh hướng triết lý, cho rằng họ cố tình làm già đi cái tuổi trẻ của mình. Bởi vì rõ ràng có rất nhiều vấn đề của cuộc sống đất nước, con người và thế giới đang bùng nổ, ảnh hưởng sâu sắc đến họ, những người luôn muốn đến với tâm điểm nóng. Dưới một tác động như thế người ta dễ dàng đưa vấn đề lên một mức khái quát cao hơn. Một số bài thơ đã gây trong tôi một ấn tượng như vậy. Có khi, tôi bỗng nhìn ra một cái nhìn khác với cách trình bày rất lạ.
Chúng ta cách nhau nửa vòng xe lăn nửa vòng trái đất
Để đến được cùng em tôi đã đổi thay tốc độ thường ngày
(Sông Hương số 11 Xuân Ất Sửu)
Một đoạn trong một bài thơ khác, đã thuyết phục các biên tập viên Tạp chí Sông Hương ngay trong một đêm đọc thơ ở câu lạc bộ văn học trẻ Huế, để sau đó tạp chí có quyết định giới thiệu ngay như một tác giả (Sông Hương số 9).
Xin lặng im
Lắng nghe tiếng những bàn tay xoay khối ru bích
Những hạt lúa quay cuồng trong máy xát
Người nhạc sĩ ngồi ghi từng nốt nhạc
Những ống khói rất trẻ
và những đàn chim sẻ
giật mình bay lên trời,
***
Những người mẹ có mang đang mỉm cười...
Với cả hai bài thơ nêu trên, chúng ta không còn đọc ở đây cái "cảm xúc kiểu văn chương thuần túy nữa", mà nó đòi hỏi chúng ta phải tham gia một cách trọn vẹn vào điều nó đang nói tới. Những tác giả trẻ ngày càng muốn người cảm thụ với người sáng tạo là một. (Phải chăng đây cũng là một dấu hiệu của quá trình dân chủ hóa trong văn chương?)
Khuynh hướng đối thoại ấy (có thể gọi như vậy) tạo cho tôi cái cảm giác phải luôn quay lại nhìn mình. Hình như, đôi lúc tôi đã bỏ một giai đoạn nào đó, một cái gì đó; mà giờ đây chỉ có họ mới cảm thụ được. Đúng hơn, tôi đã bị thuyết phục, phải học tập ngôn ngữ, hình thức thể hiện của họ để sống lại cái cảm giác tươi mát do sức và thói quen cũ kỹ làm già đi.
Và có thể nói, trong cái không khí đó, tôi đã có được những tình bạn mới. Qua trang viết đầu tay, các bạn trẻ đã nghe được những tiếng nói đồng cảm, tìm đến nhau, để cùng chia sẻ hoài bão lớn của mình. Vậy là vô hình chung, một phong trào viết trẻ đã được khởi động, và được hưởng ứng rộng rãi. Nhiều cây bút trẻ xuất hiện trên tạp chí với tư cách là tác giả. Nhiều người được kết nạp vào Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên.
Theo tôi đó là điều chúng ta có thể khẳng định được, bởi vì, ở một tờ báo khác (lấy tờ Văn nghệ Bình Trị Thiên trước đây làm ví dụ) chắc gì chúng ta có được một đội ngũ như vậy, cùng xuất hiện một loạt trong vòng chỉ một hai năm.
Trong bối cảnh đang có dư luận nghi ngờ về sự tồn tại của thơ ca; cho rằng thơ đang mất dần vị trí của mình và đang lạm phát những nhà thơ(!), thì sự xuất hiện của những cây bút trẻ quả là một hiện tượng. Nó gần như một nỗ lực mới đang tích tụ lại, hướng đến một câu trả lời về tình hình trên.
Giữa lúc đó, chúng ta đã làm gì? Không ít người trong chúng ta để ngủ yên trong nếp nghĩ một thói quen "thà tỏ ra nồng nhiệt với một bài thơ của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử... thà ảnh hưởng Baudelaire hơn là đến với bài thơ của tác giả trẻ có giọng kiểu Voznexenxky.
Vậy đó, cái hôm nay có trở thành lịch sử hay không tùy thuộc ở tất cả chúng ta. Thế nhưng, đôi khi chúng ta đã không đánh giá hết những gì đang xảy ra với họ, hoặc tìm cách bài bác tính cách tồn tại của họ. Hình như đang có một thành trì gìn giữ cảm quan của chúng ta rất kỹ. Trước thành trì này, một nhà thơ lớn đã phải coi "là nhà thơ, kẻ nào giúp ta đập tan mọi thói quen dễ dãi..."
Nuôi dưỡng một tham vọng như vậy là hoàn toàn chính đáng. Phía độc giả, và những nhà phê bình tiên tiến khi đánh giá về họ, những cây bút trẻ, cái cần đặt lên bàn chân trước tiên phải là nỗ lực đó. Và hôm nay nếu họ chọn một tiếng nói mới có vẻ lạ với chúng ta, thì không phải vì sự tình cờ, vì lập dị, mà vì họ có tâm tình mới, những mơ ước mới; cho dẫu những tâm tình ấy, những mơ ước ấy chưa bao giờ đến, hoặc không bao giờ đến nữa với chúng ta!
Đã qua rồi cái thời phải tôn thờ một khuynh hướng, một hình tượng cần thiết cho cuộc tuần đạo. Ngày nay cuộc sống mới mở ra rộng lớn hơn; và thơ ca nếu không tự mình làm phong phú thêm bằng tư duy mới, khám phá mới, tất yếu sẽ chịu mất vòng nguyệt quế của mình.
Người đốn củi
đã biến thành cái cây
người đốn củi khác
đến chặt
và tự nhận lượt mình
biến thành cây
……..
(Yanis Ritsos)
Một sự liên tục có tính kế thừa, đã diễn ra như vậy, để nghệ thuật không bao giờ cũ kỹ. Trang viết đầu tay trên tạp chí Sông Hương là sự chuẩn bị cho tính chất ấy. Mọi sự lặp lại tiếng nói của quá khứ đều có nghĩa như tự mình phế bỏ quyền thừa kế của mình. Bởi vì đây là đất cần khai phá, cần được dũng cảm cách tân; đây là miền đất trẻ…
P.T.H
(SH24/4-87)
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.