Thơ thiền, những đóa hoa trường sinh

10:02 17/11/2009
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

(Ảnh: Internet)

Nhẹ thênh, nên người ta nghĩ thơ Thiền là thơ siêu thoát, lánh trần. Mặc dù thơ Thiền đi tìm sự an nhiên ngày tháng giữa bao la rừng trúc, đường cây, giữa hoàng hôn pha sương, đỉnh núi chon von với ánh trăng vô sắc và tiếng chuông chùa giữa thinh không hư ảo.

Trước hết, ta yêu thơ Thiền như những bông hoa lạ ít hương sắc trần gian nhưng lại giữ cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ về tầm vóc con người. So sánh thơ Thiền với phần lớn thơ văn Lý Trần bốc lửa, ta có cảm giác người xưa biết tự điều chỉnh và cân bằng giữa bao biến nghịch đời sống. Tôi tưởng thơ Thiền chỉ là những hạt bụi qúi, nào ngờ đó là đám tinh vân tỏa sáng âm thầm. Phần lớn tác giả thơ Thiền là những thiền sư tiếng tăm và huyền bí. Những trụ cột tạo nên dòng thơ Thiền Việt Nam như Không Lộ, Mãn Giác, Quảng Nghiêm, Trần Thái Tông, Tuệ Trung thượng sỹ, Đạo Hạnh Trần Nhân Tông với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Như thế chẳng phải thơ Thiền là thơ Phật giáo diễn tả con đường giác ngộ, giải thoát chúng sinh? Tôn giáo đích thực nào chẳng là tự do tâm linh, khát cháy của nhân dân. Thơ Thiền giải tỏa tâm hồn bởi kinh nghiệm hư vô nên nó là dòng thơ đặc biêt. Lối giải thoát của Thiền thi không trông chờ ở cái chết hoặc thế giới bên kia. Tư tưởng giải thoát thấm sâu trong thơ Thiền khẳng định chỉ có thể thực hiện được trong cuộc đời này. Cuộc đời mỗi người như con lắc đam mê, phải tìm thấy điểm dừng lắng, an tĩnh từ bỏ ham muốn không cùng trong vô minh đau khổ. Thơ Thiền đi cùng đường với Unamunô đã từng khẩn thiết kêu cứu: “Hãy trả lại linh hồn cho tôi”

Thơ Thiền không sáng tạo nên hình ảnh con người vay trả, nặng trần duyên. Chẳng xin ai và cũng chẳng đòi ai. Thơ Thiền chỉ đòi hỏi con người phải vững bước vượt qua những bi lụy trần thế diễn ra từng ngày. Đó là sự đòi hỏi cao nhất ở con người về nhận thức đạo tâm, tự cứu lấy mình bằng tự chất đầy kinh nghiệm sống trực tiếp, bằng tự cởi bỏ những gì là hư ảo.

Tuy nhiên phải thấy Thiền giáo và thơ Thiền chẳng chống đối gì nhận thức thực tại bằng khoa học. Thiền chỉ muốn chỉ ra lối nhận thức khác có ý nghĩa trực tiếp hơn, nội tâm hơn, thực hơn và riêng tư hơn. Văn học, nghệ thuật là trường hoạt động của con người, trong đó sự khám phá trực tiếp chân lí là phương pháp chủ yếu, hầu như là phương pháp quan trọng nhất để nhận thức những chân lí trực giác bất cập đối với nhận thức khoa học. Sự nhận thức trực giác đó tỏ ra hữu hiệu đối với thơ Thiền.

Trong văn học nghệ thuật, chân lí được nhận thức chứa đựng yếu tố cảm xúc nhiều đến mức ý nghĩa của nó không thể nào đem thuyết minh một cách tương xứng bằng những mệnh đề logic. Chỉ riêng điều này cũng đủ thấy, không thể cảm thụ thơ Thiền bằng con đường duy lý. Nghệ thuật dạy cho con người sống trong cảm hứng. Trạng thái cảm hứng đánh thức sự liên tưởng bao gồm cả những liên tưởng vô thức, từ đó tạo ra sự hiểu biết tổng hợp phát huy năng lực tổng giác của con người.

Lối nhận thức của Thiền là chấp nhận đời sống như con người và sự vật đang sống. Nhận thức đó không chấp nhận sự chia xẻ ra từng mảnh và cố khôi phục cuộc sống bằng trí tuệ hay trừu tượng hóa. Lối nhận thức trong thơ Thiền duy trì đời sống như vốn có. Sáng tạo của người nghệ sĩ lúc ấy sẽ là chân thực, tự hiện hữu.

Đóa hoa không ý thức về mình. Chính nhà thơ đã đánh thức nó khỏi vô thức triền miên. Tenysơn đánh mất đóa hoa vì ông đã ngắt nó ra khỏi bức tường rêu xám, còn Ba Tiêu lại đạt được nó vì ông nhìn đóa nasuna khép nép nở bên bờ dậu hoang. Điều đó có khác gì đâu như Enxa Triôlê đã viết: “Nhà văn là người cho máu”, giọt máu ấy hồng hào trong đối tượng mô tả.

Hình tượng con người trong thơ Thiền được khai thác ở khía cạnh hùng tâm tráng chí, được nuôi dưỡng trong nguồn suối vĩnh hằng làm nên sức đẩy nội tại cho mỗi phút giây đang sống và làm chủ cuộc sống, mà trước hết là cái môi trường lịch sử và môi sinh vũ trụ có thể làm con người cao cả. Hình ảnh con người như thế trong thơ Thiền về sau vẫn tiếp nối hình ảnh con người “cắp ngang ngọn giáo” và “mài gươm dưới ánh trăng” trong “Cảm hoài” “Thuật hoài”... Con người ấy tự thắp đuốc lên mà đi với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh con người tiếp thu được nguồn lực vĩnh hằng của sự tương tác thiên- địa- nhân. Thơ Thiền không phải chỉ là thơ của niềm tín ngưỡng mà còn là một lối sống mạnh mẽ của con người tài trí chẳng kém gì trong lịch sử giữ nước, dựng nước. Đây là lúc tu thân, tự khám phá, tự chứng nghiệm chân lí để đào luyện tinh thần. Chính vì vậy mà hình tượng con người trong thơ Thiền vượt khỏi tầm vóc một con người cụ thể để tự rọi sáng con người minh trí và thiện tâm. Đọc thơ Thiền, người ta cảm nhận được sự siêu phàm của tư thế con người khao khát vô lượng trước vũ trụ bao la. Đó là Quảng Nghiêm thiền sư nuôi chí xông trời thẳm:

            Nam nhi tự hữu xung thiên chí

Và một khi đã tin ở sự sáng láng của trí tuệ và nguồn lực vô tận của bản thể thì sức mạnh con người có thể mở ra mọi hướng đi đến khát vọng “búng tay phá đổ núi muôn trùng” (Tự thuật- Trần Thánh Tông).

Nếu thơ Thiền chỉ là thơ đạo hạnh của kẻ chân tu thì làm sao ta có thể cảm nhận được sức sống đang nảy sinh và trường tồn trong trời đất và tâm hồn. Sự minh triết của thơ Thiền không chỉ tổng kết cuộc đời một cách sáng suốt mà là hội nhập tiểu vũ trụ con người vào đại vũ trụ để sống thuận theo qui luật và chế ngự qui luật ấy bằng đạo tâm hay bản ngã bất diệt của mình:

            Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận
            Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân

Hình ảnh nhành mai thanh mảnh yếu ớt vẫn tràn đầy sức sống. Sức sống ấy trong vòng quay luân hồi, nhân quả chắc chắn đến trong niềm tin và đến thật bất ngờ với niềm vui lớn lao kỳ lạ như sinh sản tự lòng người:

            Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
            Đêm qua sân trước nở nhành mai

Đọc thơ Thiền ta gặp sự thanh vắng trong trẻo của thiên nhiên. Thiên nhiên hiện hữu không đơn giản chỉ là tình yêu tạo vật mà là điểm tựa bình yên vĩnh cửu. Đời người là hạn hẹp nhưng thiên nhiên sẽ trường tồn. Nó là mơ ước hóa thân, là điểm tựa để con người thấy mình tồn tại trong sự bất diệt. Hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên trong thơ Thiền là vầng trăng mở ra bao la trong đêm vắng, là biểu tượng của tâm thức Thiền:

            Trăng Lăng già sáng vằng vặc
            Sen Bát nhã ngát hương thơm.


Màu xanh ngăn ngắt, mở ra cõi tĩnh lặng lòng người trong thơ Không Lộ thiền sư, khi thì hiện lên trong sắc trời, lúc lại được biểu hiện gián tiếp qua dòng sông. Màu trăng và màu trời xanh trước hết là màu sắc tâm trạng thấm đượm triết lý thể nhập của con người vào vĩnh cửu để tìm lại sức sống tươi trẻ tận đầu nguồn.

            Nghìn màu xanh muôn vẻ thúy tràn ngập làng nước
            Góc bể chân trời là nơi nuôi dưỡng chân tính của ta
                                    (Tuệ Trung thượng sĩ)

Màu trời xanh biếc xa xăm là trạng thái tràn đầy của cõi chân tâm khi đã ngộ đạo, thấu triệt lẽ vô thường của cuộc đời.

Đó là cái vẻ “biếc một màu” sạch không, khi đám mây vô minh bị quét sạch trong thơ Trần Thái Tông để còn lại tâm hồn lặng trong, sáng láng.

            Ai hay mây cuốn trời quang tạnh
            Núi hiện chân trời biếc một màu

Bằng mọi cách, thơ Thiền đi tìm sự khẳng định trường sinh của con người. Nói thực ra, đó không phải là đi tìm sự tồn tại xác thân mà là niềm tin vĩnh cửu vào sự trở về bản ngã, đạo tâm và duyên nghiệp trong vòng chuyển vận giữa khoảnh khắc và cuộc đời, giữa cuộc đời con người và sự vĩnh hằng của vũ trụ. Thời gian trong thơ Thiền không đáng kể gì bởi vì:

            Chớp mắt vừng ô vừa ra khỏi phương Đông
            Ngoảnh đầu mặt trời đã lại đứng bóng

Con người trong thơ Thiền là con người phi thời gian trong thời gian ngắn ngủi. Cho nên chất lượng đời người là sự thể nhập và lặn sâu vào đời sống đang là đây, trước mắt và đang sục sôi ý chí.

Hiện hữu là vĩnh cửu không chờ đợi. Thơ Thiền không biết mong chờ mà luôn đưa đến sự nhập thế tích cực, quan tâm đến đời sống thế tục. Sống không đo đếm thời gian mà tự nhận ra mình đang sống và được sống trong vận động miên trường. Điểm đỉnh của sức sống ấy lại là những giây phút dừng lắng, kết tinh sự trường tồn trong trọn vẹn tỉnh thức của con mắt đại giác. Nói như Suduki, con người trong Thiền thi, tìm cách thoát sinh, im lặng thể nhập thanh bình, vĩnh cửu. Ở đây và bây giờ tương đương với tính không và vô hạn. Thơ Thiền có những khoảnh khắc đột biến trong chứng nghiệm chân lí. Đó là những cái giật mình bừng ngộ của cõi tâm linh và trí huệ:

            Hiểu thấu được thâm tâm mở bừng con mắt huệ
                                   
(Nguyễn Nguyên Học)

Trực giác mạnh mẽ làm nên chất thơ kỳ lạ trong thơ Thiền, tạo nên những hình ảnh bứt phá với nhịp điệu khỏe khoắn tràn trề sinh lực, làm thay đổi trạng thái an tịnh âm thầm, thành sự sống mãnh liệt đối lại với chính nó để cả hai cùng lộ rõ.

Một tiếng thét bùng nổ trên cao làm ớn lạnh bầu trời trong thơ Không Lộ là thế: 

            Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
            Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư

Nhất thanh như tiếng thét ấy nghe kĩ thì vẫn là tiếng kêu thầm lặng mà thôi, vì nó ở riêng một đỉnh, trong một không gian xa lắc, con người muốn bay vào cõi ấy để thể nghiệm. Một sự thể nghiệm không có tiền lệ. Nghệ thuật của thơ Thiền chủ trương vô ngã để hữu ngã cao hơn trong tầm thước khác.

Dấu ấn con người vui sống vươn ra xa, chìm vào sâu là một bằng chứng thơ Thiền đã dồn đúc vào sức sống đang tồn tại, không hề xóa bỏ con người, cho dù nó chỉ là một chấm nhỏ trong vũ trụ mênh mông. Và con người được thừa nhận trước hết và được đề cao trước nhất là con người cá nhân cụ thể đang đối mặt với con người là đối tượng nhận thức.

Với nội dung khẳng định sức sống con người là tồn tại vĩnh cửu trong qui luật hóa thân, thơ Thiền tìm thấy một nghệ thuật diễn tả tuyệt diệu. Có thể nói trọng tâm cảm hứng của thơ Thiền được xây dựng xung quanh “cái đẹp cô đơn”.

Con người cô đơn đối mặt với thiên nhiên im vắng, không lời và con người cô đơn đối diện với chính mình. Số từ ít ỏi đặc biệt và số câu hạn định trong thơ Thiền thực sự nhằm vào sự độc âm, lời gọn và ý tứ khoáng đạt. Một chữ buông ra là kéo theo vô số nghĩa được gợi lên. Điều đó đem lại cảm xúc mơ hồ như một lợi thế hiển nhiên để có được không gian suy tưởng gắn chặt vào các từ đắt nhất mà người ta gọi là “cửa ải một từ” của sự kiệm ước tối đa lời nói. Theo Thiền, “nói ắt là không trúng”. Thơ Thiền chấp nhận cái buồn như một sự soi thấu nhân gian và nhìn ra cái chết tất yếu. Khoảnh khắc đang sống của con người đem lại sự yên vui thanh thản nhưng không dứt khỏi sự ám ảnh đời người hữu hạn, dù có cái giá đỡ của nó là tìm cách lao thẳng vào sự mênh mông vĩnh hằng của vũ trụ để tìm lại mình trong khởi nguyên chung của trời đất. Vì thế, mặt khác ta lại thấy sự thư thái đâu đó như sinh ra từ những vần thơ về cuộc sống bình thường của con người và những cố gắng siêu thoát tinh thần trong cuộc sống ấy bằng “sự quên” rất đặc trưng được gián tiếp trình bày với muôn vàn sự tỉnh ngộ hay “giật mình”... Đó là giấc ngủ say quên trời đất của ông chài trong thơ Không Lộ thiền sư. Đó là trạng thái quên trong khi “lò tàn, than lụi sáng nào hay” trong thơ Huyền Quang để thấy lại nỗi buồn của cảm giác hư không, cảm giác về cái không tồn tại, vì cái có và cái không cũng biểu hiện thoáng chốc rồi lại bị cuốn hút vào dòng trôi. Cuộc đời dường như mãi mãi là bắt đầu để có sự tươi tắn, tinh khôi của khởi nguyên con người bản thể. Đó cũng là nỗi buồn thanh thản khi ta nhận ra một miền đất quê hương huyền bí bên ngoài thời gian và những giới hạn của lịch sử, nơi mà sự trong trắng và niềm vui còn đọng lại.

Thơ Thiền mãi mãi bất ly thế gian để đi tìm một thái độ sống dứt khoát, để soi sáng ý nghĩa đời sống. Thiền luôn chống chọi với sự yếu mềm và lao vào bóng tối của con người. Hình thức nghệ thuật thơ Thiền là hiện sinh đời sống với nguyên lý phát hiện nguồn lực đa chiều, đa lượng để tiếp tục đi xa, vào sâu hơn đời sống khi tri thức con người tỏ ra bất lực. Nói khác đi, thơ Thiền là một biểu hiện sinh động và độc đáo của một hành vi nghệ thuật quay về với đời sống. Nguyên lý thơ Thiền không phải là tả cảnh, thoát phàm mà là sống đầy đủ và trọn vẹn trong sức sống tàng ẩn.

Thơ Thiền lần đầu tiên nói hay nhất về sự khám phá con người. Nó rót thêm giọt mật sống động, hân hoan và đắng chát về mặt đất và không bao giờ cạn kiệt sự sinh sôi. Thơ Thiền xứng đáng được chiêm ngưỡng như những đóa hoa trường sinh bí ẩn.

Tháng 5. 1999
N.T.H
(127/09-99)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)

  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.