Thơ tân hình thức: phản kháng, tìm tòi và... quá khích!

08:31 25/08/2009
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

Nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên (Ảnh: vietbao.vn)

Cái mới trong thơ, thiển nghĩ, đâu có can chi vào những cuộc tranh cãi ấy. Cái mới thực sự chỉ bắt nguồn từ nội tại của một nền thơ, không thể gồng mình lên, sướng lên mà mới được. Cái mới, hiện đại hoá thực sự có được phải qua một quá trình tiếp biến, kế thừa và phủ định những giá trị cũ, truyền thống không còn hợp thời nữa. Quá trình ấy phải được nỗ lực nuôi dưỡng và chín chắn để có thể tạo ra những cuộc bùng vỡ thẳm sâu. Văn chương không ép uổng, nóng vội và càng không nên rút ngắn khoảng cách! Cũng như không thể mong cho lúa mau lớn mà nắm đầu mạ kéo lên khỏi đất được.

1.
Gần đây, trong giới làm thơ thường "đồn đại" về cái gọi bằng cái tên chung chung là thơ Tân hình thức (THT). Người có vai trò nhất trong việc "phổ cập" thơ Tân hình thức vào Việt Nam, có lẽ, là một nhà thơ Việt ở hải ngoại, ông Khế Yêm. Trong cuốn tiểu luận có tên "Tứ khúc" (Bản tự in), ông Yêm cho rằng, THT trong thơ Việt có những đặc tính chính: cách nói thông thường, vắt dòng, kỹ thuật lặp lại và tính kể chuyện. Bên cạnh đó, thi đàn Việt Nam (trong nước và hải ngoại) những năm đầu thế kỷ cũng đã xuất hiện những bài thơ THT chủ yếu của các tác giả thơ ở TP. Hồ Chí Minh và hải ngoại như: Đỗ Kh., Phan Nhiên Hạo, Nguyễn Đạt, Trần Tiến Dũng, Đoàn Minh Hải... và gần đây là Lý Đợi, Bùi Chát, một ít ở cây bút nữ Phan Huyền Thư... Nhưng nói chung, chưa có tác phẩm nào nổi trội, xứng đáng tạo được dư luận rộng rãi.

Người ta nghi ngại những cái tên gọi chung chung ấy và quyết tâm tìm tòi xem trước đây, ở Việt Nam đã có ai đụng tới "cái món" ấy hay chưa. Đại biểu đầu tiên được đưa ra bàn cãi là nhà thơ Chế Lan Viên với bài Tập qua hàng (nghe tựa đã thấy đầy tính... vắt dòng!):

            Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ
            Trở về. Nắng sớm cũng mong. Cây
            Cũng ngóng. Ngõ cũng chờ. Và bướm
            Cũng thay màu đôi cánh đang bay

Thật tài hoa. Chưa đặt ra câu hỏi đó có phải là thơ THT hay không thì ai cũng phải khẳng định rằng: đó là một bài thơ hay. Và người ta chắc một điều, khi Chế Lan Viên viết bài thơ ấy, ông chẳng có cái khái niệm làm thơ THT đâu! Ông chỉ biết làm sao để viết cho thật đẹp, thật hay mà thôi! Cái gọi là THT (và những nghi ngờ THT) có chăng, thực sự đến sau khi người ta muốn dán cho nó một cái nhãn. Thơ thì vô tội. Lại là thơ hay. Cái nhãn ấy không cưỡng được sức long lanh và toả sáng của chính nó!

Cũng gần đây, có nhà thơ cổ suý cho THT, đã kêu gọi đồng nghiệp mình "phổ cập" THT và nâng cao về quan điểm thẩm mỹ mới cho người thưởng thức như cách "nâng cao dân trí thơ". Xin thưa, tiếng hô hào ấy rơi vào câm lặng là điều không lấy gì làm bất ngờ. Vì cuộc sống hiện đại đã chứng minh rằng, thơ cũng hay đấy, nhưng thiếu thơ người ta cũng sống tốt, sống khoẻ, chẳng việc gì phải đi tìm hiểu làm sao để tiếp cận một bài thơ THT mà nhãn tiền là những tác phẩm chưa đủ sức thuyết phục họ. Rõ mấy ông nhà thơ rỗi việc và cũng khôi hài thật đấy! Chứ thử hỏi, thơ THT, thế này thì thuyết phục được ai (?):

            Giờ trở lại mái nhà xưa
            Thấy người anh đã mất thấy
            Người em ở nơi quá xa
            Ảnh chế buồn rầu sau tám
            Tháng phớt tỉnh ăng lê
            Của người em là công dân
            Chánh hiệu có cầu chứng tại
            Toà ở đất nước huê kỳ...

(Xin phép không trích dẫn tên tác phẩm và tác giả, vì tôi muốn bạn đọc mới tìm hiểu thơ THT không bị dập tắt hy vọng một cách tức tưởi!)

2.
Thơ THT là một cuộc tìm kiếm lâu dài. Từ lâu, chúng ta đã quá quen với cách nghĩ, thơ là vần vè, chỉnh tề câu cú, thơ phải đọc, ngâm đến đâu hiểu đến đó, không phải nghĩ ngợi nhiều, một bài thơ hay phải có nhiều người thuộc nằm lòng, ê a... Phải tỉnh táo mà nhận ra rằng, lối nghĩ, lối thưởng thức như thế đã ăn sâu vào trong nhận thức, đã bám rêu trong nền văn học Việt Nam quan chức, hay tự vỗ về bằng khái niệm truyền thống và mua vui cho nhiều người. Chúng ta phụ thuộc vào lề lối cảm thụ, theo thói quen dễ dãi tự đặt ra và tự thích nghi rồi tự xuê xoa sung sướng. Với những nhà thơ lười lao động thì cứ  "tèn tèn" trên cái "e" ấy mà... tuôn chảy. Người ta làm thơ, in thơ quá dễ. Trên những mặt báo chuyên ngành, thơ được xếp chiếu theo tên tuổi và bề dày nghề nghiệp của nhà thơ. Những nhà thơ vần vè câu cú, đến nỗi mới đọc câu thứ hai thì người ta đã đoán tỏng ra là câu thứ 3 thứ 4 và... câu cuối sẽ mang vần gì, chữ gì. Lâu dần, thơ thành một món nộm quen thuộc, mới nếm đã nhàm!

Tìm kiếm hình thức thể hiện mới là điều rất nên làm đối với những người lao động nghệ thuật có ý thức. Nhất là đối với những nhà thơ trẻ, khi họ tràn căng nhiệt huyết say mê và lửa dấn thân, muốn mở những con đường mới để thế hệ mình không bị núp bóng dưới những bụi, lùm trên lối đi mòn cũ rũ buồn nhiều dấu chân mà ít mặt người. Cuộc hành trình ấy đầy thử thách. Được ăn cả, ngã về không. Họ sẽ ghi được một dấu ấn nào đó trong cuộc tìm kiếm dài ngày đầy nhọc nhằn. Hoặc sẽ mãi mãi chẳng được bạn đọc biết đến, sẻ chia. Nhưng trong số họ, không ít người lại lao vào những cuộc kiếm tìm bằng sự bốc đồng và xốc nổi, bắt nguồn từ sự thiếu tỉnh táo trong phản kháng nên sinh ra chuyện ồn ào, hung hăng. Khi mà, (nói như Bùi Chí Vinh), họ chưa kịp trang bị vũ khí để tự bảo vệ mình, khi mà cái họ tuyên xưng chưa rõ hình hài và chiều sâu lý luận hoặc thứ lý luận ấy chứng tỏ sự bất khả của nó! Thế thì đập phá chỉ để mà đập phá, chứ chưa thực sự tạo ra và xây dựng nên một cái gì đó mới mẻ hơn, thuyết phục hơn. Họ tự hào và AQ rằng, thơ mình không đăng được ở Việt Nam vì vấn đề giới tính được nói... toạc móng heo, không chút che đậy. Những bài thơ của họ, ngoài cái sự THT ra, còn có những tiếng tục tằn, những từ tục tĩu lộ thiên một tâm lý thác loạn không đem lại một hiệu ứng (hay tín hiệu) mỹ cảm nào cho người đọc. Nếu tự tách thơ ra khỏi cái đẹp và đưa gần lại sự dung tục thì có lẽ người ta sẽ bỏ làm thơ mà... chửi tục. Bởi trong trường hợp ấy, những kẻ chửi tục sẽ có tác dụng chuyển tải ý tưởng nhanh, thành công và có... kinh nghiệm hơn, việc gì phải làm thơ cho khổ!

Nghệ thuật là những chuyến mở đường không cùng. Những kẻ có hiểu biết và ý thức việc mình làm sẽ nhận ra đâu là nơi có thể mở đường, đâu là nơi bất khả. Biết bất khả mà cứ húc đầu vào không phải là can đảm mà cuồng loạn và bệnh hoạn trong tâm thần.

Thời gian, tuổi trẻ nào đợi ai bao giờ!

Phản kháng trước sự chỉnh tề, mũ cao áo rộng của một nền thơ cũ kỹ, đang có xu hướng lão hoá để tạo ra một diện mạo mới, tiếng nói mới cho thời đại mình là cần thiết. Ở trong văn chương không có chỗ cho sự nhún nhường, cả nể và kính lão đắc thọ như trong cuộc sống. Mà nó là sự phủ định liên tục, tạo nên sự phong phú, dịch biến không cùng trong cái dòng chảy thao thiết ấy. Nhưng phủ định thế nào, theo chiều hướng nào là điều cần nhìn nhận lại kỹ lưỡng hơn.

Những bài thơ THT vô tội.

Tôi tin, bạn đọc sẽ trân trọng một bài thơ THT có giá trị thẩm mỹ cao, hơn là những kiệt tác đã đóng rêu, đóng mốc trong lịch sử văn học, Nhưng tôi sẽ tạm cảm tình với một bài thơ theo lối cũ mà thực sự là thơ, hơn là phải thưởng thức một cái món, gọi là nhân danh THT mà không tìm thấy một phẩm chất thi ca nào!

3.
Còn những bạn đọc yêu quý ơi! Tôi biết không có thơ trong thời đại này, người ta vẫn sống tốt, sống khoẻ, sống vui... Nhưng nếu còn có thời gian rỗi rãi, xin ghé qua hàng thơ, dù để xem hôm nay có sản phẩm mới nào có thể dùng được hay chăng? Biết đâu, sản phẩm ấy được đóng chuẩn chất lượng ISO, lại dưới cách thức chế  biến rất... Tân Hình Thức, Tân Thời Đại!

Miền Đông, tháng Hạ, 2003
N.V.N
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.